Những kiểm tra POST thông thường cung cấp ba loại thông báo: những mã audio, những thông báo trên màn hình dạng văn bản và những mã số thập lục phân được gửi tới địa chỉ cổng I/O.
Những lối POST được thể hiện trong ba cách dưới đây:
+ Mã tiếng bíp – Nghe thông qua loa được gắn với bo mạch chủ
+ Mã trạm kiểm soát POST – Mã trạm kiểm soát số thập lục phân gửi tới địa chỉ cổng I/O. Cần một card đặc biệt vào khe cắm card ISA hoặc PCI để xem những mã này.
+ Thông báo trên màn hình – Những thông báo lỗi hiển thị trên màn hình sau khi thiết bị tiếp hợp video được khởi chạy.
Mã tiếng bíp POST BIOS
Những mã tiếng bíp chỉ được dùng cho những lỗi tai hại, là những lỗi xảy ra sớm trong tiến trình card video và những thiết bị khác chưa thể làm việc. Bởi vì không thể hiển thị, những mã này lấy hình thức một dãy tiếng bíp xác định thành phần lỗi. Khi máy tính chạy bình thường, một tiếng bíp ngắn khi hoàn tất của POSt hệ thống khởi động, mặc dù một số hệ thống (như là Compaq) bíp hai lần tại điểm kết thức của POST. Nếu một sự cố bị phát hiện, một số tiếng bíp khác nhau kêu lên, đôi khi là những âm thanh ngắn và dài.
Mã trạm kiểm soát POST BIOS
Những mã trạm kiểm soát POSI là những mã số thập lục phân được viết bởi những thủ tục POST đến địa chỉ cổng I/O 80h ngay khi bước chủ đạo được bắt đầu. Chúng thường được gọi đơn giản là những mã POST (POST codes). Những mã POST này có thể được đọc bởi một card tiếp hợp chuyên dụng cắm vào một trong những khe cắm hệ thống. Những card này cơ bản được thiết kế cho những nhà sản xuất hệ thống để sử dụng kiểm tra chạy thử nghiệm bo mạch chủ. Vài công ty làm những card này cho kỹ thuật viên. Micro 2000, JDR Microdevices, Data Depot, Ultra-X và Trinitech chỉ là một số ít nhà sản xuất những card POST này.
Những mã trạm kiểm soát POST có thể được dùng để theo dõi tiến trình của hệ thống thông qua quy trình khởi động ngay lúc bật nguồn đến điểm bộ nạp sự khởi động chạy (khi tải hệ điều hành bắt đầu). Khi cắm card đọc mã POST vào khe cắm, suốt lúc POST bạn sẽ thấy những số thập lục phân hai số chạy vụt trên phần hiển thị của card. Nếu hệ thống dừng bất ngờ hay treo, bạn xác định kiểm tra đang trong tiến trình mã hai số. Bước này thường giúp xác nhận thành phần trục trặc.
Đầu tiên, phần lớn card đọc POST cắm vào đầu nối 8 bit là phần tử của bus ISA hay ELSA. Một số hệ thống dựa trên PCI cũ hơn cũng dùng đầu nối ISA cho những card này. Tuy nhiên bo mạch chủ trên phần lớn PC mới hơn không có khe cắm ISA, nên hiển nhiên card POST ISA không hoạt động. May mắn thay, những công ty làm card POST thường không làm phiên bản PCI. Micro 2000 có một card được gọi là Post-Probe, có cả hai đầu nối ISA và PCI trên một bảng mạch.PC Certify có card tương tự được gọi là PCISA FlipPOST (xem hình 20.1).
Mặc đầu hiếm, hệ thống Compaq cũ hay dựa trên EISA cũ hơn từ bất kỳ người bán nào có thể dùng địa chỉ cổng I/O khác hơn cổng 80. Những card POST đơn giản hơn chỉ điều khiển cổng 80, nhưng nhiều card có những chuyển mạch DIP hoặc những khối cầu nhảy để cấu hình card điều khiển những địa chỉ cổng I/O khác nhau mà những hệ thống này sử dụng.
Thông báo trên màn hình BIOS POST (BIOS Onscreen Messages)
Những thông báo trên màn hình là những thông báo ngắn gọn biểu lộ lỗi cụ thể. Những thông báo này chỉ được hiển thị sau thời điểm card tiếp hợp video và màn hình được khởi chạy. Những loại thông báo lỗi khác nhau này phụ thuộc BIOS và thay đổi theo những nhà sản xuất BIOS, thậm chí có các BIOS khác nhau này phụ thuộc BIOS và thay đổi theo những nhà sản xuất BIOS, thậm chí có các BIOS khác nhau từ cùng nhà sản xuất. Những phần sau đây liệt kê những mã được dùng bởi những phiên bản ROM BIOS khá phổ biến (BIOS của AMI, Award, Phoenix và IBM), nhưng bạn nên tham khảo nhà sản xuất bo mạch chủ hay ROM BIOS của bạn để có những mã cụ thể cho bo mạch chủ và BIOS.
Phần lớn card mã POST đi với tài liệu liệt kê những mã kiểm soát POST cho những phiên bản BIOS khác nhau. Nếu BIOS của bạn khác với cái được liệt kê dưới đây, hãy tham khảo tài liệu cho BIOS hay thông tin đi với card POST.
Theo “Nâng cấp và sửa chữa máy tính” Scott Mueller