Khi hệ thống khởi động, nó đọc sector đầu tiên từ ổ cứng được gọi là bàn ghi khởi động chính (MBR: master boot record) và chạy mã được chứa trong sector đó. Mã MBR đọc bảng phân vùng (công được chứa trong MBR) để xác định phân vùng nào có thể khởi động và vị trí nó bắt đầu: Kế tiếp nó tải sector đầu tiên của phân vùng có thể khởi động được gọi là bản ghi khởi động ổ đĩa (VBR: volume boot record) chứa hệ điều hành - mã khởi động cụ thể. Tuy nhiên, trước khi thực thi VBR, MBR kiểm tra để chắc chắn VBR kết thúc với byte 55AAh. Thông báo Missing operating system được hiển thị bởi MBR nếu nó tìm thấy sector đầu tiên của phân vùng khởi động (VBR) không kết thúc ở 55AAh. Vài cái có thể làm điều này xảy ra, bao gồm như sau:
■ Các tham số ồ đĩa vào BIOS Setup không đúng hay bị lỗi. Đây là những tham số xác định ổ đĩa mà bạn nhập vào BIOS Setup và chúng được lưu trữ trong chip CMOS RAM được cấp nguồn bởi một pin trên bo mạch chủ. Các tham số không đúng làm chương trình MBR biên dịch khác đi và đọc sector VBR sai, do đó xuất hiện thông báo Missing operating system. Một pin CMOS chết cũng gây ra điều này bởi vì nó làm mất hay tạo lỗi tham số biên dịch ổ đĩa và tham số chế độ truyền được lưu giữ. Thực tế, theo kinh nghiệm của tôi, pin chết là một trong nhiều nguyên nhân. Để sửa chữa, kiểm tra và thay pin CMOS, chạy BIOS Setup, vào màn hình tham số ổ đĩa cứng và vào các tham số ổ đĩa đúng. Lưu ý rằng hầu hết tham số ổ đĩa nên được đặt ở tự động hay tự động phát hiện.
■ Ổ đĩa chưa đuợc phân vùng hay định dạng trong hệ thống. Đây là lỗi bình thường nếu bạn thử khởi động hệ thống từ ổ cứng trước khi việc cài đặt hệ điều hành hoàn tất. Khởi động đĩa khởi động hệ điều hành (đĩa mềm hay CD) và chạy chương trình SETUP, sẽ nhắc bạn đi qua quy trình phân vùng và định dạng trong khi cài đặt hệ điều hành.
■ MBR và/hay các bảng phân vùng bị sai. Điều này do các virus trong sector khởi động, trong số những thứ khác. Để sửa chữa, khởi động cứng (tắt nguồn, rồi bật nguồn) từ Windows XP hay mới hơn, chèn đĩa và dùng lệnh FixMBR trong Recovery Console (XP) hay Recovery Environment (Vista hay mới hơn), sao lại mà MBR nhưng không làm thay đổi bảng phân vùng. Kế tiếp khởi động lại. Nếu thông báo vẫn còn bạn cần khôi phục lại dữ liệu trong ổđĩa, rồi bạn phải xây dựng lại bảng phân vùng từ đầu dùng tiện ích hiệu chỉnh đĩa hay thuê chuyên gia hồi phục dữ liệu để họ làm điều này cho bạn. Nếu bạn không cần hồi phục dữ liệu trên ổ đĩa, đơn giản cài đặt lại hệ điều hành từ đầu, sẽ nhắc bạn đi qua quy trình phân vùng và định dạng ổ đĩa.
■ VBR bị hòng. Để sửa chữa, khởi động cứng (tắt nguồn, rồi bật nguồn) từ Windows XP hay mới hơn, chèn đĩa và dùng lệnh FixBOOT trong Recovery Console (XP) hay Recovery Environment (Vista hay mới hơn), ghi lại VBR. Hệ thống đang gặp lỗi bộ nhớ không thường xuyên. Nếu bộ nhớ mới được tăng thêm hay một số thay đổi khác được thực hiện đổi với hệ thống, bạn nên bỏ bộ nhớ thêm hay các thay đổi để xem liệu nó có phải là nguyên nhân. Nếu không phải, gỡ ra và đặt lại tất cà module bộ nhớ.
Nếu phần tiếp xúc bị ăn mòn, lau sạch chúng bằng chất làm sạch phần tiếp xúc và sau đó chú ý chế độ tăng cường bảo vệ phần tiếp xúc. Kiểm tra các thiết lập bộ nhớ trong BIOS Setup; thông thường, tất cả thiết lập nên ở chế độ tự động. Tiếp theo, nâng cấp BIOS mới nhất cho bo mạch chủ và tháo bộ nhớ để lại một dãy. Tiệp theo chỉ chạy một thanh bộ nhớ, nhưng trong vị trí dãy thứ hai hay thứ ba. Một socket có thể gây sự cố và hầu hết bo mạch chủ không yêu cầu socket được xếp theo thứ tự đánh số. Cũng vậy, thay module bộ nhớ này bằng module khác vừa tháo ra, hoặc cái mới, hoặc cái chuẩn.
Nếu vẫn không giải quyết được, sự cố có khả năng là do bo mạch chủ hay bộ cấp nguồn__ hay có thể một số thành phần khác trong hệ thống. Tháo thành phần khác khỏi hệ thống đế xem liệu chúng có gây sự cố. Đặt lại bộ xử lý và thay bộ cấp nguồn bằng cái chuẩn hay cái mới chất lượng cao. Cuối cùng, thử thay bo mạch chủ. Hệ thống treo thường xuyên và đôi khi tự khởi động lại. Đây là triệu chứng của vấn đề bộ cấp nguồn. Bộ cấp nguồn được thiết kế để gửi tín hiệu PowerGood đến bo mạch chủ khi nó vượt qua kiểm tra nội bộ và sản lượng ổn định. Nếu tín hiệu này giảm xuống, ngay cả trong chốc lát, hệ thống xác lập lại, vấn đề với mạch PowerGood gây ra treo và tự khởi động lại. Điều này cùng xảy ra nếu nguồn tại 0 cắm tường không đúng. Xác định đầu ra bộ cấp nguồn bảng đồng hồ đo kỹ thuật số tất cả đầu ra nên trong tầm 5% của điện áp quy định. Dùng một máy kiểm tra cho ổ cẳm tường để chắc rằng nó được nối dây đúng và xác nhận rằng điện áp gân I20V. Thay dây nguồn hay dải trấu cắm nguồn giữa bộ cấp nguồn và 0 cắm tường.
Không may là tính chất không liên tục làm sự cố này khó giải qụyết. Nếu sự cố không phải do nguồn bộ cắm tường, cách tốt nhất là thay thế bộ cấp nguồn bằng bộ mới chất lượng cao hay bộ chuẩn đủ để xử lý hệ thống (300 W3tt hay C30 hơn). Nếu điều này không tác dụng, đặt lại CPU và lắp lại bộ tản nhiệt với chất liệu dẫn nhiệt. Kế tiếp đặt lại các module bộ nhớ, chỉ chạy một dãy bộ nhớ và sau chót mới thay bo mạch chủ.
Tôi lắp đặt một ổ đĩa cứng dung lượng lớn hơn trong hệ thống, nhưng hệ thống chỉ nhận 8.4GB hay 137GB. ROM BIOS bo mạch chủ được nâng cấp qua nhiều năm để hỗ trợ các ổ đĩa dung lượng càng lúc càng lớn.
BIOS trước tháng 8 năm 1994 thường bị giới hạn ổ đĩa tới 528MB, trong khi BIOS trước tháng 1 năm 1998 bị giới hạn ổ đĩa tới 8.4GB. Phần lớn BIOS có từ 1998 hay mới hơn hỗ trợ các ổ đĩa 137GB, và những BIOS có từ tháng 9 năm 2002 hay mới hơn đều hỗ trợ ổ đĩa lớn hơn 137GB. Những số liệu này chỉ là những hướng dẫn chung; để xác định chính xác điều này cho hệ thống, bạn nên kiểm tra với nhà sản xụất bo mạch chủ. Bạn cùng nên dùng tiện ích System Information cho Windows (SIW) từ www.gtopala.corn. Nó cho biết ngày BIOS và xác định liệu hệ thống có hỗ trợ đặc điểm kỹ thuật Enhanced Disk Drive (EDD), nghĩa là ổ đĩa lớn hơn 8.4GB.
Nếu BIOS không hỗ trợ EDD, vào website nhà sản xuất bo mạch chủ để xem liệu có bất kỳ BIOS nào cho bo mạch chủ để hỗ trợ ổ đĩa lớn hơn.
Ngưỡng 137GB hơi phức tạp bởi vì, ngoài vấn đề BIOS, vấn đề hệ điều hành và trình điều khiển thiết bị tiếp hợp chủ AT A trong chipset có liên quan, ổ đĩa lớn hơn 137GB được truy xuất bằng cách dùng địa chỉ khôi logic 48 bit (LBA: logical block address), cần sự hỗ trợ của BIOS, sự hỗ trợ của trình điều khiển chipset, sự hỗ trợ của hệ điều hành. Thông thường, bạn cần BIOS có hỗ trợ LBA 48 bit (thường có từ tháng 9 năm 2002 hay mới hơn), trình điều khiển chipset mới nhất và Windows XP với Service Pack 1 (hay mới hơn) được cài đặt. Nếu BIOS bo mạch chủ không cung cấp đủ hỗ trợ cần thiết, thử tải và cài đặt phiên bản mới nhất. Lưu ý phiên bản đầu tiên của XP, cùng như Windows 2000 và các phiên bản cũ, không có hỗ trợ cho ổ cứng lớn hơn 137GB.
Theo Nâng cấp và sửa chữa máy tính Scott Mueller