Bộ phận quan trọng nhất trong một hệ thống máy tính chính là bo chủ hay bo mạch chủ. Gần như mỗi bộ phận bên trong trong máy tính đều kết nối với bo mạch chủ và những đặc trưng cùa nó quyết định khả năng làm việc của máy tính cùa bạn, không đề cập bởi hiệu năng tổng thể. Mặc dù, tôi thích từ bo mạch chủ hơn những từ khác như: bo chủ, bảng hệ thống và bàn phẳng đều có thể thay thế được. Chương này nghiên cứu những dạng khác nhau của bo mạch chủ có sẵn và những bộ phận tiêu biểu chứa trên bo mạch chủ và các bộ kết nối giao diện bo mạch chủ.
-
cong ty bao tri may tinh-
dịch vụ bảo trì máy tínhVài dạng phổ biến đuợc sử dụng cho bo mạch chủ máy PC. Khía cạnh vật lý (kích thuớc và hình dạng) cũng như bộ phận kết nối chắc chắn, lỗ gắn đinh vít và những vị trí khác chỉ ra loại dạng của thùng đựng máy mà bo mạch chủ sẽ lắp vừa vặn. Vài dạng đúng tiêu chuẩn (nghĩa là tất cả bo mạch chủ với cùng hệ số dạng có thể thay thế được), nguợc lại những dạng khác thì không đủ tiêu chuẩn để có thể thay thế lẫn nhau. Đáng tiếc những dạng không đủ tiêu chuẩn này đã ngăn cản bất kỳ sự nâng cấp dễ dàng hay sự thay thế ít tiền và có nghĩa là chúng sẽ bị bỏ quên. Nhũng dạng bo mạch chủ PC được phổ biến như sau:
Những dạng lỗi thời:
■Baby-AT (PC và XT)
■Full-size AT
■LPX (bán độc quyền)
■NLX
■WTX
■BTX, microMTX, picoBTX
■Những dạng hiện đại
■ATX và các biến thể: microMTX, FlexATX, DTX/Mini –DTX, ITX/Mini-ITX
Bo mạch chủ đã tiến triến qua nhiều năm từ dạng Вару-AT được sử dụng trong PC IBM gốc và XT đến ATX hiện hành (và những biến thể) được sử dụng trong hầu hết hệ thống máy để bàn và những hệ thống dạng tháp (Tower). ATX đã có 1 số biến thế, hầu hết trong các kích cỡ nhỏ hơn được thiết kế để phù hợp với những phân đoạn và ứng dụng thị trường khác nhau. Dạng BTX dòng đời ngắn tái định vị những bộ phận chủ yếu để phát triển hệ thống làm lạnh và kết hợp một module nhiệt.
Bất kỳ cái nào không phù hợp với một trong những dạng tiêu chuẩn công nghiệp đều được xem như độc quyền. Trừ khi có những tình huống đặc biệt, tôi không đề nghị mua những hệ thống có thiết kế độc quyền vì chúng rất khó cung cấp và tốn nhiều chi phí cho việc sửa chữa bởi vì những thành phần như là bo mạch chủ, thùng máy, bộ nguồn không thể thay thế với những hệ thống khác. Tôi thường gọi các hệ thống dạng độc quyền là các máy tính “dùng một lần” bởi vì đó là việc thông thường phải làm với chúng khi nó quá chậm hay cần sửa chữa khi đã hết bào hành.
Các dạng lỗi thời
Những phần sau xem xét các dạng bo mạch chủ tiêu chuẩn công nghiệp không còn được dùng nữa, nhưng vẫn có thể tìm thấy trên các hệ thống cũ hơn.
PC và XT
Bo mạch chủ PC phổ biến đầu tiên là máy vi tính IBM nguyên bản đã phát hành vào năm 1981. Hình 4.1 cho thấy bo này như thế nào. IBM tiếp tục máy vi tính với bo mạch chủ XT vào tháng 3 năm 1983, có cùng kích thước và hình dáng như bo mạch chủ máy vi tính để bàn nhưng có 8 Slot thay vị 5. Cả hai bo mạch chủ máy tính IBM và XT có kích cỡ là 9"xl3". Những Slot này được để cách nhau 0.8" trong XT thay vì 1 " như trong PC (xem hình 4.2). XT cũng đã loại bỏ cổng cassette ít sử dụng ở phía sau, ý định dùng để lưu những chương trình gốc trên băng ghi âm thay vì đĩa mềm (cùng thời điểm) đắt hơn nhiều.
Những sự khác biệt nhỏ trong những vị trí Slot và bộ kết nối cassette bị bỏ đi ở phía sau đòi hỏi một chút sự thiết kế lại của thùng máy. về cơ bản, XT là máy vi tính được nâng cao một ít, với bo mạch chủ có cùng kích cỡ và hình dáng, sử dụng cùng bộ xử lý, sắp xếp trong một thùng máy tương tự ngoại trừ thanh đỡ Slot và không có cổng cassette. Cuối cùng là sự thiết kế bo mạch chủ XT đã trở nên rất phố biển và nhiều nhà sản xuất bo mạch chủ khác ngày nay đã sao chép thiết kế XT của IBM và đã sản xuất ra những bo mạch chủ tương tự.
AT khổ rộng
Dạng bo mạch chủ AT khổ rộng tương xứng với thiết kế bo mạch chủ AT IBM nguyên bản. Điều này cho phép bo mạch chủ rất lớn lên đến 12"chiều rộng và 13.8" chiều sâu. Bo mạch chủ AT khổ rộng xuất hiện lẩn đầu vào tháng 8 năm 1984, khi IBM giới thiệu máy tính cá bgaab Ả (công nghệ tiên tiến). Để thích hợp với bộ xử lý 286 16 bit và tất cả bộ phận hỗ trợ cần thiết. IBM cần nhiều chỗ hơn là những bo kích cỡ PC/XT nguyên bản có thể cung cấp. Vì thế đối với AT, IBM gia tăng kích cỡ của bo mạch chủ nhưng giữ lại vị trí lỗ bắt ốc và những bộ kết nối của thiết kế XT. Để thực hiện điều này, IBM cơ bản bắt đầu với bo mạch chủ kích cỡ PC/XT và mở rộng nó thành 2 hướng (xem hình 4-3).
Cách đây hơn 1 nãm sau khi được giới thiệu, sự xuất hiện của những chipset và sự hợp nhất mạch điện cho phép chức năng bo mạch chủ được xây dựng sử dụng ít những con chip hơn, vì thế bo mạch chủ được thiết kế lại nhỏ hơn một chút. Sau đó, nó được thiết kế lại lần nữa khi IBM làm nhỏ bo mạch chủ xuống kích cỡ XT trong một hệ thống được gọi là XT-286 (được giới thiệu tháng 9 năm 1986). Bo mạch chủ XT 286 gần như có kích cỡ và hình dạng tương tự XT nguyên bản, một dạng sau này được biết như Baby-AT.
Bộ kết nối bàn phím và những bộ kết nối Slot trên bo mạch chủ AT vẫn tuân theo những yêu cầu sắp xếp cụ thể để thích hợp với những lỗ xiết ốc trong thùng mát AT có sẵn, những thùng máy lớn hơn vẫn yêu cầu thích hợp với bo mạch chủ lớn hơn. Bởi vì kích cỡ lớn hơn, bo mạch chủ AT chỉ khớp với thùng máy AT để bàn hoặc thùng máy dạng tháp. Do những bo mạch chủ không khóp với thùng máy Baby-AT nhỏ hơn hay thùng máy dạng tháp nhỏ và do sự tiến bộ trong sự thu nhỏ bộ phận, chúng không được sản xuất dài hạn bởi các nhà sản xuất bo mạch chủ ngoại trừ trong vài trường hợp cho những ứng dụng máy chủ bộ xử lý đôi.
Điều quan trọng khi nhận xét về hệ thống AT là bạn có thể luôn luôn thay thế bo mạch chủ AT bằng bo mạch chủ baby-AT (hay bo mạch chủ kích cỡ XT), ngược lại thì không đúng trừ khi thùng máy đủ lớn để ăn khớp thiết kế AT.
Baby - AT
Sau khi IBM cho ra đời AT vào tháng 8 năm 1984. hợp nhất thành phần cho phép hệ thống kế liếp được thiết kế sử dụng ít con chip hơn và yêu cầu ít hơn trong nhiệm vụ bo mạch chủ. Bởi vậy, tất cả những mạch được thêm trên bo mạch chủ 16-bit có thể phù hợp với những bo mạch chủ dùng dạng XT nhỏ hơn.
Như vậy, thực chất Baby-AT là cùng dạng với bo mạch chủ IBM XT nguyên bản. Sự khác nhau duy nhất là một sự cải biến nhẹ một trong những vị trí lỗ xiết đinh ốc để phù hợp kiểu thùng máy AT. Những bo mạch chủ này cũng có sự xếp đặt cụ thể của đầu nối bàn phím và Slot cho khít với những lỗ trên thùng máy. Thực sự những bo mạch chủ AT và Baby AT sử dụng đầu kết nối loại DIN 5 chân chuẩn cho bàn phím. Bo mạch chủ Baby-AT có thể được sừ dụng để thay thế bo mạch chủ AT khổ rộng và sẽ phù hợp với vài thiết kế thùng máy. Bởi vì tính linh hoạt cùa nó, từ 1983 đến đầu 1996, dạng Baby AT là bo mạch chủ kiểu phổ biến nhất. Bắt đầu vào giữa năm 1996, Baby AT được thay thế bởi thiết kế bo mạch chủ ATX cao cấp hơn, không thể thay thế trực tiếp. Hình 4.4 thể hiện những tính năng trên bo và thiết kế của bo mạch chủ Baby-AT kiểu sau này.
Cách dễ nhất để xác định hệ thống dạng Baby - AT mà không cần mở ra xem phía sau thùng máy. Trong bo mạch chủ Baby - AT, những card gắn trực tiếp vào bo mạch chủ một góc 90 độ; mặt khác những Slot trong thùng máy cho những card thì vuông góc với bo mạch chủ. Cũng vậy, bo mạch chủ Baby - AT chỉ có một đầu nối thực sự trực tiếp gắn vào bo mạch chủ, đó là đầu nối bàn phím. Điển hình, đầu nối này là đầu nối kiểu D1N 5 chân, mặc dù một số hệ thống Baby-AT sử dụng đầu nối mini-DIN 6 chân nhỏ hơn (đôi khi được gọi đầu nối kiểu PS/2) và thậm chí có thể có một đầu nối chuột. Tất cả đầu nối khác đều được gắn trên thùng máy hay trên móc cạnh card và được gắn với bo mạch chủ bằng cáp. Đầu nối bàn phim nhìn thấy qua một lỗ đặt trên thùng máy.
Những bo mạch chủ Baby - AT, tất cả đều phù hợp với bề rộng cụ thể và lỗ xiết đinh ốc, Slot và định vị đầu nối bàn phím, trừ một thứ có thể thay đổi là chiều dài bo mạch chủ. Những phiên bản được xây dựng nhỏ hơn kích thước”9xl3”; Chúng thường được gọi là mini-AT, micro-AT hay thậm chí nhỏ khoảng 2/3 hoặc 1/3 Baby. Cho dù không đầy đủ kích thước, chúng vẫn được gắn trực tiếp vào trong thùng máy như bo mạch chủ Baby-AT tiêu chuẩn và có thể được sử dụng như một sự thay thế trực tiếp.
LPX
Những bo mạch chủ dạng LPX và mini-LPX là thiết kế nửa độc quyền mà Western Digital phát triển năm 1987 cho một số bo mạch chủ của họ. LP trong LPX thay cho Low Profile, bởi vì những bo mạch chủ này kết hợp với những Slot đặt song song, cho phép card mở rộng được lắp đặt ngang. Điều này cho phép thiết kế thùng máy mảnh nhỏ và một tổng thể hệ thống nhỏ hơn Baby-AT.
Mặc dầu Western Digital không còn sản xuất bo mạch chủ PC, nhưng dạng mẫu tiếp tục phát triển, nhiều nhà sản xuất thiết kế bo mạch chủ nhân bản thiết kế chung. Không may, bởi vì cấu hình kỹ thuật không bố trí chi tiết chính xác- đặc biệt phần card đứng (bus riser card) của thiết kế - những bo mạch chủ này bán độc quyền và không thể hoán đối giữa những nhà sản xuất. Vài nhà cung cấp, như IBM và HP, xây dựng hệ thống LPX dùng card đứng dạng T cho phép những card mở rộng được gắn ở góc 90 độ so với bo mạch chủ nhưng vẫn ở trên bo mạch chủ. Sự thiếu tiêu chuẩn hóa này có nghĩa nếu có hệ thống với một bo mạch chủ LPX, trong phần lớn trường hợp bạn không thể thay thế bo mạch chủ với một bo mạch chủ PLX khác sau đỏ. Thực chất bạn có một hệ thống mà không thể nâng cấp hoặc sửa chữa bởi việc thay thế bo mạch chủ với bo khác tốt hơn. Mặt khác, bạn có điêu mà tôi gọi là PC sử dụng một lân.
Phần lớn mọi người không được cảnh báo về bán độc quyền của việc thiết kế những bo mạch chủ và chúng vô cùng được ưa chuộng trong cái tôi gọi “ cửa hàng bán lẻ ‘ PC từ cuối những năm 1980 cho tới cuối những năm 1990. Bao gồm chủ yếu những hệ thống Compaq và Packard Bell, cũng như nhiều người khác sử dụng dạng này trong những hệ thống giá thấp của họ. Những bo mạch chủ này thường được sử dụng trong hệ thống nhỏ hoặc những hệ thống thùng máy Slimline nhưng cũng được tìm thấy trong những thùng máy dạng tháp. Những hệ thống này thường là hệ thống giá thành thấp như là những thứ được bán ở siêu thị diện tử bán lẻ. Ngày nay LPX được xem như lỗi thời.
Những bo mạch LPX có vài tính năng đặc biệt (xem hình 4.5). Có thể chú ý nhất là những Slot mở rộng trên card đứng cắm vào bo mạch chủ. Trong phần lớn các thiết kế, những card mở rộng cắm hướng tói một bên trên card đứng. Sự sắp đặt này cho phép thiết kế thùng máy nhỏ. Những slot được đặt ở trên một hoặc hai phía của card tùy thuộc vào thiết kế hệ thống và thùng máy. Người bán sử dụng những bo mạch chủ loại LPX trong thùng máy dạng tháp đôi khi dung card dạng T đặt Slot mở rộng ở góc phải thông thường đối với bo mạch chủ nhưng trên một kệ được nâng lên trên chính bo mạch chủ đó.
Một tính năng khác biệt nữa của thiết kế LPX là sự thay thế tiêu chuẩn của những đầu nối ở phía sau của bo mạch chủ. Một bo mạch chủ LPX có một dòng những đầu nối cho video (VGA 15 chân), parallel (25 chân), hai công nối tiếp (9 chân mỗi cái), chuột và bàn phím loại mini- DIN PS/2. Tất cả những đầu nối này được sắp đặt dọc theo rìa cùa bo mạch chủ và nhô ra qua I khe trên thùng máy. Một số bo mạch chủ LPX có thể có những đầu nối thêm vào cho những cổng trong khác như là card mạng hoặc card SCSI. Bởi vì hệ thống LPX sử dụng nhiều tích hợp công trên bo mạch chủ, người bán bo mạch chủ LPX. thùng máy và những hệ thống thường quy cho những sản phẩm LPX như là thiết kế “tất cả trong một”.
Dạng tiêu chuẩn được dùng cho các bo mạch chủ LPX và mini-LPX trong nhiều hệ thống giá thấp điển hình được thể hiện trong hình 4.6.
Tôi thường hỏi: 'Tôi có thế nói được như thế nào về hệ thống có bo mạch chủ LPX mà không cần phải mở thùng máy không; ?" Bởi vì có sự đa dạng trong thiết kế card đứng, bởi vì những bo mạch chủ mới hơn như là NLX cũng sử dụng card đứng, cách chắc chẳn nhất để phân biệt bo mạch chủ LPX với những hệ thống khác là xem đầu nối (cách bố trí và những thành phần cửa những đầu nối phía sau bo mạch chủ). Như bạn có thể thấy trong hình 4.7, tắt cả bo mạch chủ LPX — bất chấp sự đa dạng trong card đứng như hình dáng, kích cỡ, vị trí — đều đạt tất cả cổng ngoài dọc theo phía rìa của bo mạch chủ. Ngược lại, những bo mạch chủ Baby-AT dùng đầu nối trên thùng máy hoặc trên Slot mở rộng cho các đầu nối serial, Parallel, PS/2 chuột và cổng USB, trong khi những bo mạch chủ dòng ATX và dòng BTX tập họp những công ngoài với nhau ở phía bên trái của những Slot mở rộng. Trên bo mạch chủ ,PX. Card đứng được đặt ở giữa bo mạch chủ, trong khi bo mạch chủ NLX có card ở cạnh bên (bo mạch chủ thực sự cam vào card đứne trên NLX). Hình 4.7 cho thấy hai ví dụ điển hình của dầu kết nối ở mặt sau bo mạch chủ LPX. Lưu ý rằng không phải tất cả bo mạch chủ LPX đều có audio, cho nên những đầu nối này có thể không có. Những cổng khác (như USB) có thể không có trong biểu đồ này, phụ thuộc vào lựa chọn nào được bao gồm trên bo mạch chủ cụ thể, tuy nhiên, sự bố trí sắp đặt giống như nhau. Những đầu nối dọc theo bộ phận đằng sau của bo mạch chủ có thể gây cản trở trực tiếp với vị trì đường dẫn tới các Slot trên bo mạch chính, giải thích tại sao những card được sử dụng bổ sung cho những bo mạch chủ mở rộng.
NLX
NLX là dạng thấp nhỏ được thiết kế để thay thế thiết kế LPX không tiêu chuẩn được dùng trong những hệ thống cấu hình thấp trước đây. Đầu tiên được giới thiệu vào tháng 10 năm 1996 bởi Intel, NLX là một dạng thông dụng vào cuối những năm 1990 cho các hệ thống máy để bàn mỏng từ các nhà sản xuất Compaq, HP, Toshiba và các nhà khác. Từ năm 2000, nhiều hệ thống mỏng dùng đa dạng bo mạch chủ FlexATX.
NLX thì tương tự trong dáng vé ban đầu như LPX, nhưng với vô số cải tiến được thiết kế cho phép sự tích hợp đầy đủ các công nghệ mới nhất. NLX về cơ bản là một phiên bản được cải tiến của thiết kế LPX độc quyền, nhưng không giống LPX, NLX thì hoàn toàn được tiêu chuẩn hóa. nghĩa là bạn có thể thay thế bo mạch chủ NLX với cái khác từ nhà sản xuất khác, là điều không thể với LPX.
Một hạn chế khác của các bo mạch chủ LPX là khó khăn trong dùng kích cỡ vật lý lớn hơn của bộ xử lý mới và bộ tản nhiệt, cũng như các kiến trúc bus như là AGP cho video. Dạng NLX được thiết kế cụ thể để định vị những sự cố này (xem hình 4.8). Thực tế, NLX cung cấp đủ chỗ cho hỗ trợ hai bộ xử lý Pentium III Slot 1. Đặc điểm chính của hệ thống NLX là bo mạch chủ cắm vào card đứng, không giống LPX card đứng cắm vào bo mạch chủ. Do đó, bo mạch chủ có thể được tháo ra khỏi hệ thống mà không đụng đến card đứng hay bất kỳ card mở rộng nào cắm vào nó. Thêm nữa, bo mạch chủ trong hệ thống NLX điển hình đúng là không có các cáp bên trong hay các đầu nối được gắn vào nó! Tất cả thiết bị thông thường thay vì cắm vào bo mạch chủ như là các cáp điều khiển, bộ nguồn, đèn bảng trước, các đầu nối mạch chuyển vv... lại cắm vào card đứng (xem hình 4.8). Bằng cách dùng card đứng như một điểm tập trung đầu nối, bạn có thế tháo nắp đậy trên hệ thống NLX và trượt nhẹ bo mạch chủ về phía trái hệ thống không cần tháo sợi cáp hay bộ đầu nối bên trong. Điều này cho phép thay bo mạch chủ nhanh không thể tưởng; thực tế, tôi đã thay bo mạch chủ mất ít nhất hơn 30 giây trong hệ thống NLX! Thật là một thiết kế mang lợi nhuận cho thị trường kết hợp nơi phục vụ mau lẹ và dễ dàng là đặc điểm ưu việt.
Những thuận lợi cụ thể của dạng NLX bao gồm hỗ trợ cho tất cả công nghệ bộ xử lý hệ thống máy để bàn của thời đại cũng như sự linh hoạt trong việc chấp nhận công nghệ bộ xử lý mới, hỗ trợ những công nghệ mới hơn LPX, sự dễ dàng và tốc độ của dịch vụ sửa chữa.
Như với phần lớn hệ số dạng, bạn có thể xác định NLX qua tấm chắn I/O duy nhất hay vùng đầu nối tại phía sau bo mạch chủ (xem hình 4.9). Bạn chỉ cần xem qua phía sau bấy kỳ hệ thống có sẵn nào để biết loại bo mạch chủ nào đó. Hình 4.9 thể hiện thiết kế được xếp bậc độc nhất của vùng đầu nối I/O NLX. Điều này cho phép hàng các đầu nối xếp dọc theo đáy và có chỗ cho các đầu nối được xếp chồng đôi một mặt.
Mặc dù NLX là một dạng tiêu chuẩn cũng như họ ATX phần lớn các sản phẩm NLX được bán như thành phần của hệ thống hoàn tất được nhắm vào thị trường kết hợp. Rất ít các bo mạch chủ thị trường linh kiện được phát triển trong dạng như các tính năng thùng máy được yêu cầu.
WTX đầu tiên được phát hành vào tháng 9 năm 1998 (1.0) và được nâng cấp vào tháng 2 năm 1999 (1.1). Từ đó, WTX chính thức ngừng sản xuất sẽ không có những nâng cấp xa hơn.
Bo mạch chủ WTX có bề rộng tối đa 14’’(356mm) và chiều dài tối đa 16.75” (425mm), rộng hơn ATX đáng kể. Không có những kích thước tối thiểu nên những nhà thiết kế bo mạch chủ tự do thiết kế những bo mạch chủ nhỏ hơn miễn là đáp ứng tiêu chuẩn không ngừng gia tăng.
BTX
Balanced Technology Extended (BTX) là đặc điếm kỹ thuật dạng bo mạch chủ mà Intel đầy tiên phát hành vào tháng 9 năm 2003, với những nâng câp 1.0a và 1.0b vào tháng 2 năm 2004 và tháng 7 năm 2005. theo thứ tự. BTX được thiết kế đề giải quyết những yêu cầu nguồn thành phần gia tăng không ngừng và làm mát, cũng như cho phép tuyến mạch được cải tiến và những thiết kế thùng máy khá linh động. Tuy vậy, hướng gần đây về các thiết kế bộ xử lý dual- core hữu hiệu mạnh mẽ đã làm chậm lại nhu cầu cho những lợi ích cố hữu trong tiêu chuẩn BIX, lần đầu tiên làm chựng lại sự chấp nhận BTX. Intel phải thông báo cuối năm 2006 là từ bỏ sự phát triển BTX tương lai. BTX thông dụng trong nhiều máy tính nhãn hiệu bán lẻ sản xuất hàng loạt được bán giữa năm 2005 và 2007, như là Dell. Gateway và những hãng khác.
BTX không tương thích ngược với ATX hay những thiết kế khác. Một bo mạch chủ BTX khổ rộng lớn hơn 17% so với ATX, cho phép chỗ cho những thành phần tích hợp trên bo. Các đầu nối I/O, các Slot và các lỗ trong những vị trí khác nhau so với ATX yêu cầu những thiết kế thùng máy mới. Tuy vậy, các đầu nối giao diện nguồn thì giống như các đặc điểm kỹ thuật ATX12V mới nhất, các bộ nguồn ATX, TFX. SFX, CFX, LFX đều sử dụng. Hai hệ số dạng bộ nguồn mới đây được tạo ra để hỗ trợ các hệ thống BTX mảnh và chứa đầy.
Những thuận lợi chủ yếu cùa BTX bao gồm bố trí thành phần theo hàng tối ưu và theo tuyến, đường dẫn không khí tối ưu hóa. một đơn vị hỗ trợ và chặn giữ (SRM: support and retention module) cho bộ tản nhiệt, những kích thước bo mạch chủ tùy ý, những tùy chọn nhỏ manh, những thiết kế bộ nguồn linh động tương thích với những thiết kế ATX. BTX quy định ba kích cỡ bo mạch chủ. như thể hiện trong bảng 4.1.
Mỗi bo mạch chủ có cùng lỗ xiết ốc cơ bản và những yêu cầu đặt bộ đầu nối. Nên, nếu có một thùng máy phù hợp với bo mạch chủ BTX khổ rộng, bạn cùng có thể cắm bo mạch chủ micro BTX hay pico BTX vào thùng máy này (xem hình 4.10). Hiển nhiên là, nếu có một thùng máy nhỏ hơn được thiết kế cho MicroBTX hay pico BTX, bạn sẽ không có khả năng căm các bo mạch chủ microBTX hay BTX lớn hơn trong thùng máy này.
BTX cũng định rõ ràng các vùng dung lượng trên bo mạch chủ để ngăn ngừa bất kỳ nhiễu nào từ thùng máy hay các thành phần nội bộ như là các ổ đĩa cho phép sự hoán đổi tối đa mà không cần sự can thiệp vật lý hay ổn định các sự cố.
Với các bộ xử lý vượt quá 100W sản lượng nhiệt, cũng như các bộ điều chỉnh điện áp, các chipset bo mạch chủ, những card video đều thêm vào sự tải nhiệt trong hệ thống, BTX được thiết kế để cho phép tất cả thành phần cốt lõi tạo nhiệt cao được xếp thành hàng từ phía trước ra phía sau, vì vậy một đơn vị nhiệt hiệu suất cao (bộ tản nhiệt) có thể làm mát hệ thống. Điều này giúp loại bỏ nhu cầu cần số lượng quạt quá mức. Đơn vị nhiệt này bao gồm một bộ tản nhiệt cho bộ xử lý, một quạt hiệu suất cao và một đường dẫn đưa luồng không khí trực tiếp qua hệ thống. Sự hỗ trợ bổ sung cho module nhiệt được cung cấp theo bo mạch chủ qua một đơn vị hỗ trợ và chặn giữ (SRM), cho phép bộ tản nhiệt nặng hơn được lắp trong thiết kế ATX (xem hình 4.11).
BTX dùng cùng các bộ đầu nối nguồn như trong các đặc điểm kỹ thuật dạng bộ nguồn mới nhất, bao gồm một bộ đầu nối chính 24 chân cho bo mạch chủ và một bộ đầu nối ATX12V 4 chân cho đơn vị bộ điều chỉnh điện áp CPU. Dạng bộ nguồn riêng biệt này được dùng tùy thuộc chủ yếu trong các thùng máy được lựa chọn. Một hệ thống dạng tháp điển hình có các thành phần được sắp đặt như thể hiện trong hình 4.12.
Từ hình 4.12, bạn thấy các thành phần cốt lõi sản xuất nhiệt được định vị tại trung tâm theo tuyến từ phía trước ra phía sau, cho phép thiết kế nhiệt hữu hiệu nhất. Không khí luân chuyển từ phía trước ra phía sau qua trung tâm, làm mát bộ xử lý, chipset bo mạch chủ, bộ nhớ và card video.
Để hỗ trợ bộ tản nhiệt bộ xử lý nặng nề và việc lắp ráp đơn vị nhiệt, một SRM được đặt dưới bo mạch chủ. SRM này chủ yếu là một miếng phẳng kim loại được gắn vào thùng máy dưới bo mạch chủ, đơn vị nhiệt này được chốt trực tiếp vào SRM thay vì vào bo mạch chủ. Nó giúp mang sức nặng của khối đơn vị này và ngăn ngừa các tải quá mức áp vào bộ xử lý và bo mạch chủ, đặc biệt suốt kỳ vận chuyển và xử lý của hệ thống.
Vùng bộ đầu nối I/O BTX thì tương tự như ATX, chỉ trừ ở phía đối diện tại phía sau bo mạch chủ. Kích thước vùng này thì hơi ngắn hơn nhưng rộng hơn ATX, cho phép số lớn giao diện và đầu nối được dựng sẵn vào bo mạch chủ.
Các hệ thống dùng BTX được sản xuất chù yếu từ năm 2005 đến 2007 bởi các công ty như Dell, Gateway và những công ty khác. Sau đó, sự thiếu hụt các bo mạch chủ và thùng máy BTX mới buộc phần lớn các nhà sản xuất và xây dựng hệ thống trở lại các dạng dựa trên ATX. Những nhà sản xuất lớn khác như HP không bao giờ nhảy qua xu hướng BTX vẫn dùng các hệ thống dựa trên ATX. Do sự thiếu hụt thành phần BTX và những sự cố khác, tôi đề nghị tránh dùng hệ thống BTX và các thành phần như bo mạch chủ, thùng máy bởi vì khó nâng cấp và thay thế trong tương lai. ATX vẫn phổ biến nhất và là hệ số dạng được chọn lựa bởi các nhà xây dựng và nâng cấp hệ thống.
-
sua may tinh-
sua may tinh hcmTheo "Nâng cấp và sửa chữa máy tính" Scott Mueller