- Chỉ số đo lường mức độ nhận biết
Chỉ số đầu tiên cho thấy hiệu quả của việc chào hàng trực tuyến so với phương tiện truyền thống. Ở đây, số lượng người truy cập trong một khoảng thời gian xác định (X1) được so với tổng nhóm khách hàng mục tiêu (T) mà doanh nghiệp muốn tiếp cận để có được chỉ số đo lường mức độ nhận biết
- Người sử dụng tích cực và chủ động
Cả người sử dụng chủ động và thụ động đều được coi là khách hàng tiềm năng. Người chủ động quan tâm đến chào hàng thì hy vọng có thể thõa mãn nhưng nhu cầu của mình, họ sẵn sàng tích cực tìm kiếm thông tin. Còn người sử dụn thụ động thì đến với website một cách tình cờ và nếu được khích lệ thích đáng thì có thể sẽ thử kiếm tra sản phẩm
- Chỉ số đo lường mức độ tương tác
Thách thức tiếp theo là chuyển được người lướt web thành khách hàng trực tuyến thông qua việc tạo nên cuộc hội thoại hấp dẫn. Số khách hàng thường xuyên là X2, tương ứng với số lượng tương tác. Mức độ tươn tác được đánh giá bằng việc so sánh số lượng khách hàng tương tác X2 với số truy cập X1
X2 được xác định bởi số khách hàng tương tác với website. Tuy nhiên cần đảm bảo rằng họ không chỉ lướt qua trang chủ. Người lướt web là người chỉ xem qua trang chủ thì không thuộc nhóm khách hàng trực tuyến. Chỉ có những người lưu lại ít nhất 3 phút và xem ít nhất 3 trang trong website thì mới thuộc X2
- Chỉ số đo lường mức độ đối thoại
Bên cạnh sự tương tác mang tính kỹ thuật thì tính theo số trang hoặc nội dung mà khách hàng đã xem, cần lưu ý đến quá trình liên hệ cá nhân và hứng thú của khách hàng. Ở đây thể hiện cuộc hoại thoại chủ động của người sử dụng và phần mềm thông minh. Như đã nêu ở những phần trước, khách hàng – nhà cung cấp sẵn sàng tham gia vào việc này nếu ý tưởng và mong muốn của mình, thậm chí kể cả thông tin cá nhân. Khả năng lôi cuốn khách hàng trực tuyến trở thành đối tác chủ động là chỉ số đo lường hiệu quả đối thoại: Trong đó, số khách hàng đối thoại X3 được so với số người truy cập website X1
- Chỉ số đo lường mức độ trung thành của khách
Tỷ trọng bán hàng là một thước đo khác, được tính bằng cách so sánh số người mua X4 với số người truy cập X1. Tuy nhiên, lòng trung thành mang ý nghĩa là người sử dụng thường xuyên truy cập web hoặc thường xuyên mua hàng tại đó. Thước đó sự kết nối có thể được dùng như chỉ số đo lường hiệu quả. Chỉ số kết nối khách hàng hay lòng trung thành là hành vi của khách hàng truy cập lại X5 so với nhóm lướt web X1 hoặc so với nhóm mua hàng X4
- Xác định danh tính của khách hàng trực tuyến
Chỉ số đo lường mức độ trung thành được tính từ số người sử dụng xác định. Đó là những người đăng nhập sử dụng website (họ tự chọn mật khẩu) hoặc được đánh dấu bằng cookie. Chỉ cần xác định được địa chỉ của khách hàng là số hồ sơ người sử dụng phải được duy trì và dần được phát triển theo các lần truy cập tiếp theo của họ
- Diễn giải đề xuất kinh doanh
Cần khai thác các chỉ số nêu trên để phát triển nhiều giải pháp kinh doanh nhằm tối ưu hóa hoạt động marketing trực tuyến. Giá trị cao nhất có thể là 1. Những thay đổi về cấu trúc website, quản trị hội thoại hoặc quản trị nội dung có thể được đo lường và đánh giá tốt hơn nhờ sự hỗ trợ của các chỉ số đo lường này
4. Hoạt động xúc tiến trên mạng internet4.1 Cơ chế giao tiếp đẩy và kéoHoạt động xúc tiến marketing truyền thống tác động tới nhận thức của khách hàng mục tiêu thông qua những công cụ thích hợp. Phương tiện truyền thông đại chúng như báo, tạp chí, phát thanh và truyền hình có thể tiếp cận được lượng khách hàng truyền thông rất lớn. Mặc dù không có đối thoại trực tiếp với khách hàng, một hình thức tương tác có thể thực hiện được như thông qua phiếu mua hàng giảm giá kèm theo câu hỏi phỏng vấn
Hiện một số doanh nghiệp sử dụng internet để gửi thông điệp quảng cáo tràn lan đang là vấn đề gây tranh cãi. Thuật ngữ “thư rác” (spam) dùng để chỉ các tài liệu quảng cáo không tự động gửi đến các hộp thư điện tử và diễn đàn mà không có sự đồng ý của người nhận. Trường hợp này được so sánh với quảng cáo trực tiếp thông qua thư và điện thoại. Hình bên dưới( hình 9) so sánh cơ chế giao tiếp đẩy và kéo khi sử dụng internet làm phương tiện truyền thông
Trong cơ chế giao tiếp đẩy, thông tin hoặc thông điệp xúc tiến được tự động gửi đến người sử dụng theo chủ đề của nhà cung cấp. Tùy thuộc vào thỏa thuận giữa hai bên (trong hợp đồng đặt mua dài hạn), nhà cung cấp định kỳ gửi những thông tin được sắp xếp chủ đề (tin tức, giá cổ phiếu, dự báo thời tiết…) tới khách hàng theo thời gian nhất định hoặc trong những sự kiện đặc biệt
Hình 9. Sự khác biệt giữa cơ chế đẩy và kéo trên internet
- Ý nghĩa của giao tiếp đẩy khi được cá nhân hóa
Chức năng đẩy có hiệu lực trong nhiều loại hình xúc tiến. Đây là hoạt động do bên cung cấp hoặc người xúc tiến khởi xướng, người nhận ít kiểm soát được quá trình này. Tuy là công cụ truyền thống trong xúc tiến đại trà nhưng sử dụng ít phổ biên hơn trên internet và thường là phản tác dụng. Nó chỉ có giá trị khi người sử dụng đăng nhập để đặt nhận thông tin dài hạn và có thể ghi lại sở thích của họ về cách thức cung cấp thông tin. Trong ngữ cảnh ấy, người ta gọi giao tiếp đấy được cá nhân hóa (giao tiếp đẩy đáp ứng đúng nhu cầu của người sử dụng)
Trong cơ chế giao tiếp kéo, người sử dụng internet quyết định website nào họ muốn khám phá và thông tin nào họ muốn thu nhận từ internet. Hành động để tiếp nhận thông tin được sản xuất phát từ người sử dụng. Học chọn lọc thông tin theo chú ý của mình và độc lập quyết định xem loại hàng nào họ sẽ tìm hiểu hoặc là tải về
4.2. Quản trị nội dung- Nhiệm vụ của quảng trị nội dung
Thuật ngữ “nội dung” (content) để chỉ các thông số (văn bản, đồ họa, hình ảnh, âm thanh, video…) được chuẩn bị và cung cấp dưới nhiều hình thức khác nhau trên mạng internet và/ hoặc mạng nội bộ. Nhiệm vụ của quảng trị nội dung là lập kế hoạch và phối hợp tất cả các hoạt động liên quan đến việc tập hợp và khai thác thông tin. Đồng thời cấu trúc hệ thống quản trị nội dung cùng các bộ phận phần mềm thích hợp phải được thiết kế và duy trì
Hình 10. cấu trúc hệ thống quản trị nội dung - Giao thức ICE để trao đổi dữ liệu
Một số nội dung được mua bên ngoài dưới dạng kỹ thuật số đó là tin tức, cổ phiếu, thông tin sản phẩm. Các hãng tin chuyên nghiệp như Reuters hoặc Bloomberg thường cung cấp thêm dịch vụ và thông tin. Nội dung thường được sắp xếp, lưu trữ và trao đổi bằng giao thức ICE (Inforrmation and Content Exchange) giao thức này dựa trên ngôn ngữ định dạng XML, bao gồm cả dịch vụ đăng ký dài hạn cũng như dạng mẫu trao đổi dữ liệu
- Mục đích của việc biên tập nội bộ
Bên cạnh những thông tin mua ngoài, thông tin nội bộ cũng được biên tập và trình bày dưới dạng văn bản và dữ liệu. Đồng thời, các sản phẩm thông tin được thiết kế thể hiện các đặc tính khác nhau. Những dữ liệu chi tiết là cần thiết để môi tả sản phẩm thông tin bằng các ký hiệu sao cho có thể tìm thấy và sử dụng chúng một cách hệu quả
- Sắp xếp cấu trúc nội dung
Trung tâm của hệ thống quản trị nội dung bao gồm các công cụ để mô tả và xác định cấu trúc thông tin. Các công cụ này chủ yếu để truy cập vào ngân hàng dữ liệu, văn bản, sản phẩm đa phương tiện một cách có trật tự và dễ dàng tìm kiếm
Nguyên tắc thiết kế trong hệ thống quản trị nội dung là sự tách biệt giữa cấu trúc nội dung và hình thức trình bày:
+ Xây dựng cấu trúc mẫu: Qúa trình sắp xếp các phần nội dung riêng được thực hiện tách biệt với chính nội dung đó. Cũng cần cân nhắc đến trình tự các đoạn văn, tiêu đề và vị trí của các hình ảnh trong bài viết. Những đặc điểm kết cấu này có thể mô tả theo thứ bậc, đó là lý do tại sao XML được sử dụng làm ngôn ngữ định dạng. Việc xây dựng cấu trúc mẫu đáp ứng được các yêu cầu khác nhau được tiến hành một cách tự động. Để trình bày những thông tin khác nhau trong cùng một cấu trúc, các vị trí được đánh dấu bằng thẻ xác định
+ Tái sử dụng nội dung: Nội dung mong muốn được chèn vào vị trí trong cấu trúc mẫu bằng cách đánh dấu bằng thẻ đánh dấu phù hợp. Như vậy nội dung được chia nhỏ thành các phần riêng biệt bằng các tài sản số. Tính chất của các tài sản số rất đa dạng, có thể là một vài từ ngữ (tên sản phẩm) hoặc hình ảnh,m một bộ sưu tập tham khảo hoặc cả một đoạn văn đầy đủ. Ban biên tập ấn định cho mỗi tài sản một thẻ đánh dấu trong cấu trúc mẫu, cho phép có thể sử dụng nội dung đó trong các cấu trúc khác. Tại cửa hàng trực tuyến, các sản phẩm khác nhau có thể trình diễn bằng một cấu trúc như nhau nhưng với đặc tính khác nhau
+ Chuyển đổi hình thức: Bố cục của văn bản được xác định với sự hỗ trợ của XSL stylesheet. Nó cho phép chuyển đổi sang kiểu hình thức mong muốn
Có một số kênh kết nối giữa hệ thống quản trị nội dung với các quy trình kinh doanh. Bên cạnh kênh giao tiếp phổ biến là internet còn có các thiết bị di động và trung tâm dịch vụ khách hàng có thể cung cấp thông tin cho các quy trình kinh doanh. Tùy thuộc vào trạng thái vận hành của hệ thống quản trị nội dung mà có thể sử dụng cả hệ thống lưu đồ công việc
4.3 Các hình thức xúc tiến- Tránh sự gián đoạn trong truyền thông
Xúc tiến trực tuyến được ứng dụng chủ yểu đối với các sản phẩm/ dịch vụ chào bán qua internet. Cùng với công dụng này, các chiến dịch xúc tiến truyền thống cũng thường được sử dụng
Các phương pháp xúc tiến trên mạng internet là tương đối hạn chế, tuy nhiên cũng tồn tại khá nhiều những lựa chọn. Ở đây để để cập đến một số hình thức quảng cáo dải băng, nút bấm, website nhỏ và website cực nhỏ cũng như nội dung được gắn nhãn
- Dải băng là thông điệp xúc tiến và liên kết để tham khảo thêm
Quảng cáo dãi băng (banner). Nhiệm vụ của dãi băng tương tự như biển hiệu, bảng thông báo và quảng cáo in ấn truyền thống. Doanh nghiệp cố gắng thu hút khách hàng tiềm năng bằng bề ngoài hấp dẫn. Tuy nhiên các công cụ truyền thống không tạo được cơ hội tương tác và liên kết như quảng cáo dải băng. Dải băng cung cấp kết nối chào hàng hoặc với mẫu đặt hàng. Một dải băng điển hình bao gồm một thiết kế đồ họa (định dạng GIF hoặc JPEG), một thông điệp xúc tiến kiểu văn bản và kiểu siêu liên kết có thể kích hoạt khi nhấn chuột vào dải băng. Dải băng động ngày càng được sử dụng nhiều hơn để thu hút sự chú ý của người dùng internet. Mặc dù tỷ lệ đáng ứng với quảng cáo dải băng không cao, nhưng chỉ cần đạt được vào phần trăm thì cũng được coi là thành công
- Nút bấm nâng cao mức độ nhận biết thương hiệu.
Nút bấm (buttons). Có thể coi nút bấm là một loại đặc biệt của dải băng. Chúng được thiết kế nhỏ hơn, kín đáo hơn và vì vậy ít làm người sử dụng xao lãng nội dung của trang web. Nút bấm luôn đặt ở vị trí cố định, khác với dãi băng thường thay đổi vị trí mỗi khi lật sang trang mới của website. Mặc dù không nổi bật bởi kích thước và vị trí những hiệu quả xúc tiến dài hạn của nút bấm có thể cao hơn so với dải băng. Nút bấm phù hợp với việc xúc tiến hình ảnh và tăng cường nhận biết về thương hiệu
- Website ở bên trong website
Website nhỏ (nanosites). Như tên gọi của nó, website có kích thước nhỏ và được đặt trong dải băng. Có thể mua dịch vụ từ website nhỏ mà không hề phải rời khỏi trang web chính. Từ nanosite, có thể tải về thông tin sản phẩm, có thể đăng ký nhận tin tức hoặc có thể đặt hàng
- Microsites dành cho các nhóm khách hàng xác định
Website cực nhỏ (microsites). Đây là chiến dịch xúc tiến đặc biệt trên website. Khác với các hình thức xúc tiến đã miêu tả ở trên, microsites chỉ xuất hiện khi được người dùng thể hiện được sự quan tâm đối với sản phẩm được xúc tiến. Khi chiến dịch kết thúc, microsites sẽ đóng lại. Các website như vậy cho phép chiến dịch xúc tiến có thể thay đổi tùy thuộc vào nhóm khách hàng mục tiêu. Khả năng kiểm soát thành công của chiến dịch được thực hiện bởi microsites là rất lớn
Nội dung được gắn nhãn (branded content). Trong trường hợp này, thông tin của một số lĩnh vực cụ thể của website được đơn vị xúc tiến cung cấp và xây dựng. Chẳng hạn, một học viện tài chính có thể tập hợp nội dung theo một kết cấu cụ thể, đính biểu tượng của mình vào nội dung đó và phát hành tại website của công cụ tìm kiếm. Bộ phận điều hành của công cụ tìm kiếm tiếp cận được với thông tin tài chính hữu ích và cập nhật. Học viện tài chính nhận được sự xúc tiến bên ngoài và tạo được hình ảnh khác biệt dưới góc độ là người cung cấp thông tin thị trường chứng khoáng có chất lượng
Khi sử dụng các hình thức xúc tiến trên mạng internet thì việc đo lường hiệu quả và mức độ tương tác có thể thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau. Việc hình thành những hứa hẹn chào hàng, tổ chức nội dung thông tin, mức độ tạo hiệu ứng, màu sắc, vị trí đặt logo…đều có thể được đa dạng và tối ưu hóa
* Một ví dụ về marketing tới khách hàng trung thành của eDvdshopCửa hàng eDvdshop đã có khoảng 1000 khách hàng đăng nhập. Hơn 95% số khách hàng đã từng mua hàng ít nhất một lần và có thể gọi là khách hàng trực tuyến. Nhưng chỉ có 60% trong đó là khách hàng trung thành. Còn lại 40% thì mua ít hơn ba lần trong 6 tháng gần đây
Ông Marcel Anderson muốn thu hút sự quan tâm hơn nữa của nhóm 40%. Để thực hiện điều này, ông tìm hiểu một số phương pháp marketing online. Một phương pháp phổ biến với khách hàng trực tuyến là bản tin. Tuy nhiên hình thức này lại có một số hạn chế.
Khách hàng thường cảm thấy rất khó chịu khi nhận được bản tin thông qua email. Đó là ý do tại sao nên tiếp nhận khách hàng theo cơ chế giao tiếp đẩy cần được cá nhân hóa. Khách hàng phải có cơ hội xóa bản tin trong quá trình đăng nhập. Do eDvdshop chưa từng gửi bản tin nên không biết khách hàng đăng nhập có muốn nhận được những thông báo về những sản phẩm mới nhất thông qua thư hay không. Ông Anderson quyết định tích hợp chức năng eNews vào eDvdshop và cho phép người sử dụng có thể xóa nó. Ông thông báo với tất cả những khách hàng về bản tin thông qua email. Những khách hàng quan tâm vẫn đăng nhập bình thường, không bị bắt buộc nhận bản tin
Sau ba tháng, ông Anderson đánh giá kết quả và nhận thấy nó không hiệu quả. Chỉ có 10% khách hàng đăng nhập trong 3 tháng đó và có 50% khách hàng mới đăng ký nhận bản tin
Ông Anderson cân nhắc việc cập nhật thông tin cho khách hàng bằng hình thức khác. RSS (Really Simple Syndication) có thể là một giải pháp. Từ phiên bản 2.0, RSS được phát triển để trình bày tin tức, nhiều tờ báo sử dụng kênh RSS. Phần mềm đọc RSS được sử dụng để nhận dạng tin tức và được nhiều trình duyệt web hỗ trợ
Để sử dụng được RSS, khách hàng quan tâm cần đăng nhập thông qua phần mềm đọc RSS cho kênh RSS. Họ sẽ nhận được những thông điệp trên phần mềm đọc RSS và được thông báo cập nhật ngay khi sẵn sàng. Một kênh RSS là một văn bản XML, trong tình huống của eDvdshop thì nó được định dạng như sau:
Ưu điểm của nó với khách hàng eDvdshop là họ vẫn được cập nhật những thay đổi mới nhất của cửa hàng mà không cần phải ghé thăm trang web. Ngoài ra, kênh RSS có thể thành tập tin và đọc cả khi không kêt nối mạng
Với ông Anderson, RSS có một số ưu điểm so với bản tin. Một mặt, kênh RSS được tự động hoàn thành trên website mỗi khi ông cập nhật thông tin. Mặt khác, khách hàng có thể tự quyết định có muốn cập nhật tin tức hay không bằng việc đăng nhập vào kênh RSS
4.5 Triển vọng của marketing trực tuyến
- Internet sử dụng ở cả phạm vi cá nhân và doanh nghiệp
Trong những năm gần đây nhiều cá nhân và doanh nghiệp mở rộng sử dụng mạng internet. Thật khó hình dung về việc mở rộng kinh doanh hiện đại mà không sử dụng thư điện tử làm kênh giao tiếp. Buổi đầu của World Wide Web chủ yếu cung cấp thông tin dạng tĩnh. Ngày nay những nội dung tương tác xuất hiện ngày càng nhiều, thông tin được đưa ra theo đúng như cầu sử dụng của nhiều khách hàng và thậm chí là cả giao dịch kinh doanh cũng được tiến hành trong marketing trực tuyến
Các nhà nghiên cứu cho rằng kinh doanh điện tử trải qua bốn giai đoạn phát triển (hình 11) trên con đường khai thác tối đa tiềm năng marketing của nó:
+ Giai đoạn D: Cung cấp thông tin khái quát về doanh nghiệp
+ Giai đoạn C: Tạo cơ hội giao tiếp qua các dịch vụ chức năng tìm kiếm, thư điện tử, bản tin, diễn đàn, phòng tán gẫu, trả lời câu hỏi
+ Giai đoạn B: Các giao dịch kinh doanh được thực hiện trực tuyến, từ việc thiết kế, chào hàng, xử lý đơn đặt hàng, thanh toán và phân phối
+ Giai đoạn A: Sản phẩm và dịch vụ được cá nhân hóa, kết nối khách hàng bằng hoạt động marketing tới từng người, cho phép khách hàng theo dõi từng đơn đặt hàng, và các phần mềm thông minh được sử dụng để cá nhân hóa hoạt động tư vấn bán hàng
Hình 11. Mô hình triến hóa của tổ chức chào bán sản phẩm/ dịch vụ số- Mô hình tiến hóa trong kinh doanh điện tử
Trình độ phát triển của kinh doanh điện tử thông qua sự hiện diện của doanh nghiệp và các hoạt động của nó trên web có thể được đánh giá và xác định theo mô hình tiến hóa nêu trên. Các doanh nghiệp và tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh trên internet có thể chia làm 4 giai đoạn: thông tin (D), giao tiếp (C), giao dịch (B) và cá nhân hóa (A)
- Các giai đoạn phát triển cao hơn đạt được ý nghĩa đáng kể
Những nghiên cứu thực tế ở Châu Âu cho thấy kinh doanh điện tử ở khu vực này đã trưởng thành và hoàn thiện trong những năm gần đây. Hiện đang diễn ra quá trình dịch chuyển lên các giai đoạn cao của mô hình. Doanh nghiệp thường bắt đầu với website ở giai đoạn D hoặc C (nghĩa là cung cấp thông tin và hiện thực hóa cơ hội giao tiếp với khách hàng). Sau đó họ đầu tư vào các ứng dụng và dịch vụ để đạt được đến giai đoạn B. Nhưng ngày càng nhiều doanh nghiệp và tổ chức nhận thức được tiềm năng của dịch vụ được cá nhân hóa và nỗ lực đạt đển giai đoạn A. Nhìn chung những nghiên cứu ở khu vực Châu Âu và các nước phương Tây khác cho thấy rõ ràng là marketing trực tuyến đã phát triển nhanh chóng thời gian vừa qua, đặc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ
4.6. Tài liệu tham khảo- Tài liệu tham khảo chuẩn mực về marketing
Hiện nay có rất nhiều những giáo trình chuẩn về marketing từ sách cho đến internet, một ví dụ về tài liệu tham khảo marketing chuẩn mực là Kotler và đồng sự [Kot06] đề cập đến những vấn đề của marketing trực tuyến một cách riêng rẽ. Còn có những quyến sách chuyên sâu về eMarketing chẳng hạn như công trình của Chaffey và đồng sự [Cha06]. Các tác giả mô tả chiến lược marketing, kế hoạch marketing, kênh phân phối và cấu trúc thị trường dành cho các chào hàng trên web
Cũng cần đề cập đến một số cuốn sách chuyên về kinh doanh điện tử với những mục dành riêng cho marketing trực tuyến: Công trình của Schneider [Shc07] và của Turban và đồng sự [Tur06]. Còn tác phẩm của Scott [Sco07] thì mô tả về hiện tượng web đã thay đổi những quy tắc trong hoạt động marketing và quan hệ công chúng như thế nào
Công trình của Graf [Gra99] được viết dựa trên hoạt động xúc tiến của các dự án nghiên cứu marketing thực hiện. Hệ thống phân loại khách hàng cũng như các chỉ số đo lường hiệu quả được phân tích trong bài viết này được trích dẫn từ tài liệu của Graf
- Mô hình phân loại khách hàng chi tiết trong marketing trực tuyến
Nghiên cứu của các tác giả Pien và Davis [Pin99] tập trung vào marketing cá nhân đại trà, cho phép cung cấp đền nhiều khách hàng sản phẩm và dịch vụ một cách cá nhân. Cũng tìm hiểu về vấn đề này, các tác giả Meier và Werro [Mei07] đưa ra đề xuất về mô hình phân loại khách hàng chi tiết (fuzzy classification model) nhằm ứng dụng để nâng cao giá trị khách hàng, đưa ra các chương trình khách hàng thân thiết, tự động hóa marketing cá nhân trên quy mô lớn và tạo điều kiện thuận lợi cho qua trình cá nhân hóa trong eMarketing
YN (Theo Andreas Meier & Henrik Stormer - eBussiness & eCommerce)