Trang chủ » Tư vấn »Bảo Trì Máy Tính - Mạng LAN» Điều khiển và gìn giữ ổ đĩa mềm

Ngày tạo: 23/07/2015

Điều khiển và gìn giữ ổ đĩa mềm



Các đĩa có thể bị hỏng hay bị phá hủy dễ dàng bởi những điều sau:

+ Chạm vào bề mặt ghi bằng ngón tay hay bất kỳ thứ gì khác
+ Bẻ cong đĩa
+ Làm đồ chất lỏng lên đĩa
+ Làm nóng đĩa (để nó dưới mặt trời nóng hay gần lò sưởi, cho ví dụ)

+ Phơi đĩa để làm lạc từ trường

Ngoài những cảnh báo này, các đĩa là những thiết bị lưu trữ khá cứng. Nguy hiểm thực sự đến từ những từ trường, bởi vì không nhìn thấy chúng, có thể đôi khi chúng được tìm thấy ở những nơi mà bạn không bao giờ ngờ tới.

Thí dụ, tất cả màn hình màu (và những bộ TV màu) dùng công nghệ đèn phát hình (CRT: cathode-ray tube) có một cuộn giải từ quấn quanh bề mặt ống để khử từ mặt nà bóng khi bật màn hình. Nếu để bất kỳ đĩa mềm gần hơn khoảng 12 inch (30cm) phía trước màn hình màu sẽ phơi chúng trong một từ trường mạnh mỗi lần bạn bật màn hình. Ảnh hưởng lũy tích và không thể thay đổi được. Nhận xét rằng các màn hình LCD hay plasma không có những cuộn giải từ và do đó không ảnh hưởng đến phương tiện từ.

Nguồn từ trường mạnh khác là một động cơ điện có trong các máy hút bụi, máy sấy, máy điều hòa nhiệt độ, quạt, máy chuốc bút chì điện … Không đặt những thiết bị này gần nơi cất các đĩa. Các loa cũng chứa nam châm, nhưng đa số các loa dùng với máy tính được che chắn bảo vệ để giảm tối đa sự hủy hoại đĩa.
Lưu trữ các đĩa ½” giữa 40 độ và 127 độ Fahrenheit (4 độ - 53 độ Celsius) và các đĩa 5 ¼” giữa 40 độ và 140 độ Fahrenheit (4 độ - 60 độ Celsius). Cả hai loại, độ ẩm không nên vượt 90%.

Các máy tia X tại sân bay và thiết bị phát hiện kim loại

Một trong những tưởng tượng lý thú của tôi bị xua tan là cho máy tia X (X-ray machine) tại sân bay vì lý do chưa biết làm hỏng đĩa. Tôi có một kinh nghiệm lớn trong lĩnh vực này khi du hành quanh đất nước 20 năm qua với các đĩa và máy xách tay. Tôi bay khoảng 150.000 dặm mỗi năm và thiết bị máy tính xách tay và các đĩa qua các máy tia X hàng trăm lần.

Các tia X thực chất chỉ là một dạng ánh sáng, các đĩa và máy tính không bị ảnh hưởng bởi tia X tại bất kỳ nơi đâu gần các vị trí những máy này.

Vậy tổn hại tiềm năng cho phương tiện từ là thiết bị dò tìm kim loại (metal detector). Các thiết bị dò tìm kim loại hoạt động bằng cách kiểm tra những gián đoạn trong từ trường yếu. Một vật thể kim loại chèn vào vùng từ gây ra thay đổi bóng vùng mà thiết bị dò tìm quan sát thấy. Nguyên lý này, là lý do các thiết bị dò tìm nhạy bén với các vật thể kim loại, gây nguy hiểm cho đĩa; máy tia X tuy vậy là khu vực an toàn nhất để chuyển đĩa và máy tính xách tay qua nó.

Máy soi tia X không nguy hiểm với các phương tiện có từ tính bởi vì nó chỉ phơi thiết bị với sự bức xạ điện tử tại một tần số cụ thể (rất cao). Ánh sáng xanh là một ví dụ về sự bức xạ điện từ của một tần số khác. Điều khác biệt duy nhất giữa tia X và ánh sáng xanh là tần số, hay độ dài sóng của sự bức xạ.

Một số người lo ngại về ảnh hưởng của sự bức xạ tia X trên các chip EPROM của hệ thống (EPROM: erasable programmable read-only memory). Điều quan tâm này thực sự trở thành cơ sở hơn là lo lắng về sự hỏng đĩa bởi vì các EPROM bị xóa bởi các dạng bức xạ điện từ. Tuy nhiên trong thực tế bạn không cần lo lắng về ảnh hưởng này. Các EPROM bị xóa khi phơi trong vùng tia tử ngoại cường độ cao. Một cách cụ thể, để bị xóa một EPROM phải được phơi ở nguồn ánh sáng UV 12.000uw/cm2 với độ dài sóng 2.537 angstrom trong 15-20 phút, tại khoảng cách 1”. Tăng nguồn ánh sáng hay làm giảm khoảng cách từ nguồn có hể làm ngắn thời gian xóa đến chỉ vài phút.

Máy soi tia X tại sân bay thì khác hẳn bởi một yếu tố 10.000 trong độ dài sóng. Cường độ trường, thời gian tồn tại và khoảng cách từ nguồn máy phát không gây ra sự xóa EPROM. Nhiều nhà sản xuất thậm chí dùng sự kiểm tra bằng tia X trêm các bo mạch (với các thành phần bao gồm các EPROM đã được lắp đặt) để thử nghiệm và kiểm tra xác định chất lượng suốt kỳ sản xuất.

Hiện nay, có thể bạn không muốn dùng giải thích của tôi, nhưng các nghiên cứu khoa học được công bố đã chứng thực điều tôi đã nêu ra. Một nghiên cứu được công bố bởi hai nhà khoa học – một là người thực sự thiết kế các đèn rọi tia X cho một nhà sản xuất chính. Nghiên cứu của họ có tựa đề “Airport X-ráy and Floppy Disks; No Cause for Concern” được xuất bản năm 1993 trên tờ báo Các chương trình và Phương pháp vì tính trong ngành ứng dụng sinh học và sinh lý học vào y học lâm sàng (Computer Methods and Programs in Biomedicine). Lý thuyết chỉ ra như sau:

“Một nghiên cứu được kiểm soát đã thực hiện để kiểm tra những ảnh hưởng có thể của những tia X trên sự toàn vẹn của dữ liệu được lưu trữ trong các kích cỡ chung của đĩa mềm. Các đĩa được phơi dưới lượng tia X lên đến bảy lần suốt thời kỳ kiểm tra hành lý tại sân bay. Khả năng đọc gần 14 megabyte dữ liệu còn nguyên bởi sự rọi tia X, cho biết các đĩa mềm không bị ảnh hưởng nào trong suốt kỳ kiểm tra hành lý bởi tia X”.

Các ổ đĩa băng từ

Trong lịch sử, một phương pháp chung cho sao lưu toàn bộ ổ đĩa cứng hay các tệp tin được sửa đổi là dùng ổ đĩa sao lưu bằng băng từ hiện hành để giúp bạn quyết định lieuj loại công nghệ lưu trữ này có phù hợp với bạn không.

Các ổ đĩa sao lưu băng từ là các thiết bị đơn giản và hữu hiệu nhất cho việc sao lưu đầy đủ ổ cứng của bạn, nếu băng đủ chứa. Với một ổ đĩa sao lưu băng từ được lắp đặt trong máy tính, bạn đầy một cuộn băng vào ổ đĩa, khởi động phần mềm sao lưu, chọn ổ đĩa hay các tệp tin muốn sao lưu. Phần mềm sao lưu sao chép những tệp tin được chọn vào băng trong khi bạn làm công việc khác. Sau đó, khi bạn cần lấy một số hay toàn bộ tệp tin trong băng, đầy cuộn băng vào ổ đĩa, khởi động chương trình sao lưu, chọn những tệp tin muốn hồi phục. Ổ đĩa sao lưu băng từ sẽ làm phần còn lại.

Những bất lợi của những ổ đĩa sao lưu băng từ

Nhiều người dùng máy tính trước kia sử dụng sự sao lưu bằng băng từ cho mục đích sao lưu dữ liệu nay chuyển đổi qua những công nghệ khác vì những lý do sau:

+ Tạo một bản sao bằng băng từ của những tệp tin hay một ổ đĩa đòi hỏi sự sử dụng một chương trình sao lưu đặc biệt trong hầu hết các trường hợp. Một số ổ đĩa băng từ cho phép kí tự ổ đĩa truy cập đến phần ít nhất của dung lượng băng, nhưng tính năng này không phổ biến chút nào và phải dùng một chương trình điều khiến đặc biệt.

+ Tìm kiếm dữ liệu từ phần lớn các ổ đĩa sao lưu bằng băng từ đòi hỏi những tệp tin dữ liệu được phục hồi trong ổ cứng. Những loại lưu trữ sao lưu khác bị xem như một kí tự ổ đĩa cho việc sử dụng trực tiếp từ đĩa.

+ Những sao lưu bằng băng từ lưu trữ và tìm kiếm dữ liệu theo dãy. Tệp tin cuối được sao lưu không thể truy cập cho đến khi phần còn lại của băng được đọc; các loại lưu trữ sao lưu khác dùng truy cập ngẫu nhiên, cho phép bất kỳ tập tin nào trong thiết bị được định vị và sử dụng trong chỉ vài giây.

+ Những sao lưu bằng băng từ giá thấp dùng công nghệ QIC (Quarter Inch Committee), QIC –Wide hay Travan trước kia có sự cố nhỏ với những sự gia tăng dung lượng đĩa cứng và được bán với giá so sánh bằng hoặc ít hơn những đĩa cứng mà chúng bảo vệ. Những ổ đĩa cứng ngày nay có dung lượng lên tới 500GB hay lớn hơn và có giá rẻ hơn những sao lưu bằng băng từ có cỡ tương thích nhất. Kết quả là những ổ đĩa bằng dung lượng cao hơn đắt tiền hơn được chọn để hoàn thành những sao lưu hộp băng từ đơn. Mặt khác bạn phải lắp nhiều băng hay dùng một thiết bị lắp tự động.

+ Những kỹ thuật sao lưu và hồi phục mới hơn, như là imaging/ghosting ổ đĩa, cạnh tranh với sự dễ dàng dùng những sao lưu bằng băng từ và cho phép hồi phục dữ liệu là những thiết bị lưu trữ quang giá thấp hơn như là các ổ đĩa DVD có thể ghi lại được. Những thay thế này thì hữu dụng đặc biệt nếu chỉ một vài GB dữ liệu cần được sao lưu trên một cơ sở liên tục.

Vì những lý do này, vị trí không thể bị chiếm lĩnh trước kia của ổ đĩa sao lưu băng từ khi trở thành phụ kiện bảo vệ dữ liệu cần thiết thì không còn là thiết bị đảm bảo nữa; nhiều cạnh tranh với những sao lưu bằng băng từ xuất hiện trên thị trường. Tuy nhiên, nếu đủ điều kiện cho ổ đĩa băng DDS, DAT 72 hay AIT chất lượng cao thì bạn có giải pháp cực kỳ đáng tin cậy và tốc độ cao do những ổ đĩa giống nhau này được dùng trong sao lưu mạng.

Những thuận lợi của những ổ đĩa sao lưu băng từ

Mặc dù những ổ đĩa sao lưu băng từ không còn là phương thức hiệu nghiệm cho tất cả loại sự cố lưu trữ lớn hơn đĩa mềm nữa, chúng vẫn giữ dữ liệu an toàn. Những phần sau là vài lý do tốt cho sửu dụng các ổ đĩa sao lưu băng từ:

+ Những sao lưu bằng băng từ là quy trình sao lưu một hộp băng từ băng thực sự cho những máy tính trạm riêng biệt, những máy tính độc lập hay những máy chủ mạng khi những ổ đĩa băng từ hay hộp từ dung lượng cao được dùng đến. Bất kỳ lúc nào nhiều băng hay đĩa được sử dụng để thực hiện sao lưu, nguy cơ thất bại sao lưu càng gia tăng.

+ Nếu bạn và công ty của bạn đã thực hiện những băng sao lưu trước đó, bạn phải giữ một ổ đĩa băng từ để truy cập dữ liệu đó hay thực hiện một hồi phục từ nó. Những ổ đĩa sao lưu băng từ thì cần thiết nếu cần hồi phục từ những băng sao lưu được làm trước đây.

+ Nếu muốn một phương pháp luân phiên đĩa dễ dàng cho bảo quản nhiều sao lưu toàn bộ hệ thống, những ổ đĩa sao lưu băng từ là một lựa chọn tuyệt vời.

Nói chung, các ổ đĩa băng từ được dùng ở nơi mà độ tin cậy cao và dung lượng cao xếp tầm quan trọng. Chúng mắc tiền ban đầu nhưng không mắc cực kỳ khi bạn xem giá cả thấp như hệ số của đĩa vượt thời gian.

Các ổ đĩa quang-từ

Ổ đĩa quang từ (MO:magneto-optical) đã có thời là một dạng công nghệ đĩa di động được phổ biến. Về mặt thương mại được giới thiệu năm 1985 với dung lượng đầu tiên 230MB đến 640MB, đến năm 200 các ổ đĩa quang từ có dung lượng đến 9.1GB. Từ lúc đó, loại hình này bị giảm đi và hầu như ngưng hẳn. Đĩa này và một số ổ đĩa vẫn còn để hỗ trợ những ứng dụng mang tính kế thừa.

Theo “Nâng cấp và sửa chữa máy tính” Scott Mueller