Trang chủ » Tư vấn »Bảo Trì Máy Tính - Mạng LAN» Disk Change

Ngày tạo: 22/07/2015

Disk Change



Bộ điều khiển ổ mềm và ổ đĩa máy tính tiêu chuẩn dùng một tín hiệu đặc biệt trên chân 34 được gọi là Disk Change để xác định liệu đĩa có được thay đổi – hay chính xác hơn, để xác định liệu đĩa được nạp trong quá trình truy cập trước đó vẫn còn nằm trong ổ đĩa. Disk Change là một tín hiệu bị dao động làm thay đổi một thanh ghi tình trạng (status register) trong bộ điều khiển để hệ thống biết một đĩa được thêm vào hay bỏ ra. Thanh ghi này được đặt để cho biết một đĩa được thêm vào hay bỏ ra (được thay đổi) bằng cách mặc định.

Thanh ghi này bị xóa khi bộ điều khiển gửi một xung bước đến ổ đĩa và ổ đĩa hồi đáp, chấp nhận các đầu đọc di chuyển. Tại lúc này, hệ thống biết rằng một đĩa cụ thể đang trong ổ đĩa. Nếu tín hiệu Disk Change không được nhận trước kỳ truy cập kế tiếp, hệ thống này có thể thừa nhận đĩa tương tự vẫn trong ổ đĩa. Bất kỳ thông tin đọc vào bộ nhớ suốt kỳ truy cập kế trước có thể được dùng lại không đọc lại đĩa.

Vấn đề xảy ra nếu hỏng ổ đĩa hay cáp ngăn hệ thống nhận tín hiệu DC trên chân 34. Nếu hệ thống được báo (thông qua thiết lập CMOS) ổ đĩa này là bất kỳ loại nào khác 360KB (mà không thể gửi tín hiệu DC), hệ thống này trông chờ ổ đĩa gửi DC bất kỳ lúc nào một đĩa bị hủy bỏ. Nếu ổ đĩa không nhận được tín hiệu, hệ thống không bao giờ nhận biết một đĩa bị thay đổi. Do vậy, thậm chí nếu bạn thay đổi đĩa, hệ thống vẫn hoạt động như thế đĩa đầu tiên có trong ổ đĩa và giữ thông tin thư mục và FAT của đĩa đầu tiên này trong RAM. Điều này có thể nguy hiểm do thông tin thư mục và FAT của đĩa đầu tiên này có thể được ghi từng phần vào bất kỳ đĩa theo sau trong ổ đĩa.

Các loại phương tiện đĩa mềm và cấu hình kỹ thuật

Bảng 10.6 thể hiện những đặc điểm kỹ thuật của các ổ đĩa mềm khác nhau

Các đĩa mật độ dày gấp bốn 5 1/4 “ (QD: quad-density) không bao giờ được dùng như một tiêu chuẩn chính thức cho các máy tính. Một đĩa QD có thể được định dạng lại như một đĩa mật độ dày gấp đôi bởi một máy tính có ổ đĩa mềm 360KB.

Mật độ

Các đĩa có hai loại mật độ: mật độ theo chiều dọc (Longitudinal denity) và mật độ theo tuyến (Linear density)  và mật độ theo tuyến (Linear density). Mật độ theo chiều dọc được biết bởi bao nhiêu rãnh ghi được ghi trên đĩa và thường được diễn đạt những số rãnh ghi riêng biệt chứa dữ liệu và thường được biết như số bit cho mỗi inch (BPI: bits per inch). Không may, những loại mật độ này thì thường lẫn lộn khi thảo luận về những đĩa và ổ đĩa khác nhau.

Sức kháng từ và độ dày

Đặc điểm kỹ thuật sức kháng từ ( coercivity) của một đĩa nói đến sức bền từ trường được yêu cầu để thực hiện một sự ghi đúng. Sức kháng từ, được đo trong oersteds, là một giá trị cho biết sức bền từ trường. Một đĩa với mức sức kháng từ thấp hơn, đĩa được ghi trong từ trường yếu hơn. Mặc khác càng thấp mức sức kháng từ đĩa càng dễ hỏng.

Phương tiện HD và ED yêu cầu mức sức kháng từ cao hơn nên những vừng từ tính gần kề không bị nhiễu lẫn nhau. Phương tiện kháng từ cáo hơn thực sự ít hỏng hơn và yêu cầu một sức bền tín hiệu ghi mạnh hơn.

Yếu tố khác là độ dày của đĩa. Đĩa càng mỏng, càng ít ảnh hưởng vùng này với vùng khác gần kề trên đĩa. Do đó các đĩa mỏng hơn chấp nhận nhiều bit cho mỗi inch không làm giảm khả năng ghi.

Đĩa mềm 3 ½”

Các đĩa 3 ½” khác các đĩa 5 ¼” về hai đặc tính cấu trúc và vật lý. Đĩa linh hoạt (hay mềm) được chứa trong một lớp vỏ nhựa. Các đĩa 3 ½” được bao phủ bởi một lớp vỏ khá cứng hơn các đĩa 5 ¼”. Các đĩa không có lớp vỏ nhựa thực sự giống hệt nhau ngoại trừ kích cỡ.

Các đĩa 3 ½” dùng một lớp vỏ nhựa khá cứng hơn các đĩa 5 ¼”, giúp ổn định môi trường từ tính bên trong. Do vậy, các đĩa có thể chứa dữ liệu tại rãnh ghi và những mật độ dữ liệu lớn hơn các đĩa 5 ¼” (xem Hình 10.10). Một cửa chớp kim loại bảo vệ lỗ truy cập phương tiện (media-access hole). Ổ đĩa điều khiển cửa chớp, để nó bị đóng khi đĩa không nằm trong ổ đĩa. Đĩa mềm hoàn toàn được cách ly với môi trường và những ngón tay.

Do cửa chớp không cần thiết cho hoạt động đĩa, bạn có thể tháo bỏ nó khỏi lớp vỏ nhựa nếu nó bị cong hay bị hư. Cạy nó khỏi vỏ đĩa; nó sẽ bật ra với một tiếng tách. Bạn cũng nên tháo lò xo đầy cửa chớp đóng. Thêm nữa, sau khi tháo của chớp hư, bạn nên sao chép dữ liệu từ đĩa hư sang đĩa mới.

Hơn là một lỗ làm dấu hiệu trên đĩa, đĩa 3 ½” dùng một trục trung tâm kim loại với một lỗ sắp thẳng hàng. Ổ đĩa “ôm lấy” trục kim loại và lỗ này trên trục cho phép ổ đĩa định đúng vị trí đĩa.

Trên phàn bên trái thấp hơn của đĩa là một lỗ với một miếng trượt nhựa lỗ có khả năng bảo vệ ghi. Lỗ thấy được khi miếng trượt được định vị, nghĩa là ổ đĩa được ngăn ngừa việc ghi vào đĩa. Khi miếng trượt được định vị để che lỗ lại, việc ghi có hiệu lực, bạn có thể lưu dữ liệu vào đĩa. Cho việc bảo vệ ghi lâu dài, một số chương trình phần mềm thương mại được cung cấp trên đĩa với miếng trượt bị dời đi nên bạn không thể ghi vào đĩa. Điều này thực sự ngược với đĩa mềm 5 ¼”, trong đó được bao bọc có nghĩa là được bảo vệ ghi, không được phép ghi.

Mặt kia của đĩa (mặt phải) từ lỗ bảo vệ ghi thì thường là lỗ khác được gọi là lỗ bộ chọn lọc mật độ môi trường (media-density-selector hole). Nếu lỗ này hiện diện, đĩa được xây dựng thành một phương tiện đặc dụng và là một đĩa HD hay ED. Nếu lỗ cảm biến môi trường này chính xác đối diện lỗ bảo vệ ghi, nó cho biết là một đĩa 1.44MB HD. Nếu lỗ cảm biến môi trường được định vị hướng về phía trên đĩa (cửa chớp kim loại ở phía trên đĩa), nó cho biết là một đĩa 2.88MB ED. Không có lỗ trên mặt phải có nghĩa là đĩa mật độ thấp. Hầu hết các ổ đĩa 3 ½” có bộ cảm biến môi trường điều khiển khả năng ghi trên sự không có hay sự hiện diện những lỗ này.

Môi trường từ tính thực sự trên cả hai đĩa 3 ½” và 5 ¼” được xây dựng cùng những vật liệu cơ bản. Chúng dùng một nền nhựa (thường là Mylar) được bao phủ với hợp chát có từ tính. Những đĩa mật độ dày dùng hợp chất sắt – cobalt; những đĩa mật độ cực dày dùng hợp chất sắt –barium. Chất liệu lớp áo cứng trên trên các đĩa 3 ½” đôi khi làm mọi người nghĩ không đúng rằng các đĩa này là một loại “ổ cứng” và không thực sự là đĩa mềm. Phần bên trong vỏ 3 ½” chỉ mềm như loại 5 ¼”

Theo “Nâng cấp và sửa chữa máy tính” Scott Mueller