Các đĩa DVD video sử dụng vài mức bảo vệ chủ yếu được kiểm soát bởi DVD Copy Control Association (DVD ССA) và một công ty thứ ba là Macrovision. Sự bảo vệ này chỉ áp dụng cho các đĩa DVD-Video, không phải phần mềm DVD-ROM. Cho ví dụ, bảo vệ chống sao chép có thể tác động đến khả năng thực hiện những bản sao lưu dự phòng của Matrix, nhưng sẽ không ảnh hưởng đến bộ tự điển bách khoa toàn thư DVD encyclopedia hay ứng dụng phẩn mềm khác trên đĩa DVD-ROM.
Nhận xét rằng mỗi một trong những hệ thống bảo vệ này bị phá vỡ, với một phí tổn thêm chút ít hay phần mềm chính sửa. bạn có thể bỏ sự bảo vệ và thực hiện những sao chép các DVD dối với đĩa kỹ thuật số (ổ cứng, ổ quang, ổ flash... ) hay đĩa tương tự (như là định dạng VHS hay băng khác).
Một số lớn thời gian và tiền bạc bị lãng phí trên những chương trình bảo vệ này, mà thực ra không thể ngăn chặn được những người say mê chuyên nghiệp sẵn sàng bỏ thời gian và tiền bạc vào việc này. Nhưng chúng có thể gây khó khăn cho người bình thường hợp pháp sao lưu đĩa đắt tiền của họ.
Bốn hệ thống báo vệ chính được dùng với các đĩa DVD-Video là:
- Kiểm soát phát lại vùng (RPC: Regional Playback Control)
- Hệ thống mã hóa nội dung (CSS: Content Scrambling System)
- Hệ thống bảo vệ tương tự (APS: Analog Protection System)
- Hệ thống bảo vệ chống sao chép (ProtectDisc.)
Chú ý:
Digital Millennium Copyright Act (DMCA) ký bộ luật năm 1998 ngăn cấm sự bẻ những chương trình bảo vệ chống sao chép hay sự phân phối thông tin (như là các công cụ, các đường nối trang web...) về cách bẻ những chương trình này.
Kiểm soát vùng phát lại
Phát lại vùng được thiết kế để cho phép các đĩa được bán trong những vùng địa lý cụ thể trên thế giới vận hành chỉ trong các đầu đọc được bán trong cùng vùng. Ý tường này là cho phép một bộ phim được phát hành ở những lần khác nhau trong những miền khác nhau trên thế giới và để ngăn ngừa mọi người từ việc đặt các đĩa từ những vùng mà bộ phim chưa được phát hành.
Tám vùng được định rõ trong tiêu chuẩn RPC. Các đĩa (và đầu đọc) thường được nhận dạng bằng một biểu trưng nhỏ hay nhãn thể hiện số vùng được đặt lên trên một quả cầu thế giới Thực hiện các đĩa đa vùng là có thể, như các đĩa không được khóa vùng, Nếu một đĩa lưu hành nhiều hơn một vùng, nó có nhiều hơn một số trên quả cầu. Những vùng này là:
- Region Code 1 — Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Canada, vùng lãnh thổ thuộc Mỹ (U.S. Territories), Bermuda.
- Region Code 2 — Nhật, Tây Âu, Nam Phi và Trung Đông
- Region Code 3 — Đông Nam Á và Tây Á
- Region Code 4 — Úc. New Zealand, các đảo Thái bình Dương, Trung Mỹ, Mexico, Nam Mỹ và Caribbean
- Region Code 5 — Đông Âu (phía đông Ba Lan và vùng Balkans), tiểu lụcẤn Độ,
châu Phi, Bắc Triều Tiên và Mông cổ.
- Region Cođe 6 — Trung quốc và Tây Tạng.
- Region Code 7- Được dành riêng cho sử dụng tương lai.
- Region Code 8 - Nơi gặp quốc tế bao gồm máy bay, các hành trình tàu...
- Region Code All - Có tất cả cờ các nước được đặt, cho phép đĩa được vận hành trong bất kỳ miền nào hay đầu đọc nào. Đôi khi được gọi là Region Code 0.
Mã vùng được gắn vào phần cứng đầu đọc DVD. Phần lớn đầu đọc được lắp đặt trước cho từng vùng cụ thể và không thể thay đổi. Một số công ty bán đầu đọc sửa đổi chúng để vận hành được những đĩa từ tất cả các vùng; những đầu đọc này được gọi là các đầu đọc phi vùng (Region-free) hay phi mã (Code-free). Một số đĩa mới hơn có một chức năng mở rộng mã vùng được thêm vào (RCE: region code enhancement) kiểm tra để xem liệu đầu đọc được cấu hình cho nhiều hay tất cả vùng và nếu đáp ứng liệu có từ chối vận hành. Phần lớn các đầu đọc được sửa đổi phi vùng biết cách truy vấn đĩa đầu tiên để tránh kiểm tra này.
Các ổ đĩa DVD-ROM dùng trong PC đầu tiên không có RPC trong phần cứng, thay vì vậy công việc này đựa trên phần mềm được dùng để vận hành đĩa DVD video trên máy tính. Phần mềm trong đầu đọc thường khóa mã vùng đối với đĩa đầu tiên được vận hành và kế tiếp chỉ vận hành các đĩa từ vùng đó. Cài đặt lại phần mềm cho phép mã vùng được thiết lập lại và vô số chương trình chắp vá được gửi lên trang web để cho phép sự thiết lập lại mã vùng thậm chí không cần cài đặtlại phần mềm. Do sự dễ dàng tương đổi việc bỏ đi những giới hạn mã vùng với những ổ đĩa DVD-ROM, bắt đầu ngày 1 tháng 1 năm 2000, tất cảổ đĩa DVD-ROM và DVD được yêu cầu có RPC-II, gắn mã vùng trực tiếp vào ổ đĩa.
RPC-II (hay RPC-2) đặt khóa vùng trong ổ đĩa, không phải trên phần mềm vận hành hay giải mã MPEG-2. Bạn thiết lập mã vùng trên các ổ đĩa RPC-ll lên tới 5 lần tổng cộng, nghĩa là có thể thay đổi nó lên tới bốn lần sau lần thiết lập đầu tiên. Thông thường, sự thay đổi được thực hiện bằng phần mềm đầu đọc bạn đang dùng hay tải về phần mềm thay đổi vùng từ nhà sản xuất ổ đĩa. Lên tới lần thay đối thứ tư (là sự thiết lập thứ năm) ổ đĩa bị khóa ởthiết lập vùng cuối cùng.
Các mã vùng Blu-ray Disc sử dụng
Một chương trình mã vùng khác nhau phân chia thế giới thành ba vùng được sử dụng bởi Blu-ray Disc:
- Region A bao gồm Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Nam Mỹ, Hàn quốc, Nhật Bản và Đông Nam Á.
- Region B bao gồm Châu Âu, Trung Đông, Phi Châu, Úc và New Zealand.
- Region C bao gồm Liên Xô, Ấn Độ, Trung quốc và phần còn lại cửa thế giới.
Một Blue-ray Disc không có mã vùng được vận hành bởi các đầu đọc với bất kỳ mã vùng nào.
Hệ thống mã hóa nội dung
The Content Scramble System (CSS) cung cấp bảo vệ chính cho các đĩa DVĐ-Viedeo.Mãi cho đến bảo vệ này được thực thi. Motion Picture Association của America (MP AA) mới đồng ý phát hành các bộ phim trên định dạng DVD, là lý do chính cho sự giới thiệu DVD bị trì hoãn.
CSS đầu tiên được phát triển bởi Matsushita (Panasonic), được dùng để mã hóa và được chuyển thành mật mã kỹ thuật số dữ liệu video và âm thanh trên đĩa DVD-Video. Giải mã yêu cầu một cặp các khóa (các mã số) 40-bit (5 byte). Một khóa là duy nhất đối với đĩa trongkhi khóa kia là duy nhất đối với bộ tiêu đề (tệp tin VTS: video title set) đuợc giải mã. Các khóa đĩa và tiêu đề được lưu trữ trong vùng đầu vào của đĩa trong một hình thức được chuyển thành mật mã. Mã hóa css và ghi khóa được thực hiện suốt thủ tục xử lý thủy tinh, là công đoạn của quy trình sản xuất.
Sự lập mã này tiến hành khi đặt một đĩa DVD vào ổ đĩa DVD-ROM trên máy tính, sao chép các tệp tin vào ổ cứng, kế tiếp thử xem các tệp tin. Các tệp tin thường được gọi ra VTS_xx_yy.VOB (đối tượng video), trong đó XX đại diện số tiêu đề và yy đại diện số đoạn. Đặc thù, tất cả tệp tin cho một bộ phim có sẵn có cùng số tiêu đề và bộ phim bị trải rộng ra trong vài tệp tin 1GB hay nhỏ hơn với số đoạn khác nhau. Những tệp tin .VOB này chứa những dòng âm thanh và video bị mã hóa được xen kẽ nhau. Những tệp tin khác với một đuôi mở rộng .IFO chứa thông tin được dùng bởi đầu đọc DVD để giải mã những dòng âm thanh và video trong các tệp tin .VOB. Nếu sao chép các tệp tin .VOB và .IFO vào ổ cứng và thử nhấp hay vận hành các tệp tin .VOB trực tiếp, bạn xem, nghe pha trộn âm thanh và video hay nhận một thông báo lỗi về vận hành các tệp tin được bảo vệ sao chép.
Sự lập mã này không là vấn đề nếu bạn dùng một đầu đọc css được cấp phép (phần cứng hay phần mềm) và vận hành các tệp tin trực tiếp từ đĩa DVD. Tất cả đầu đọc DVD, dù chúng là những bộ phận độc lập người tiêu dùng hay đầu đọc phần mềm trên máy tính, đều được gán chìa khóa không khóa css duy nhất của chính chúng. Mỗi đĩa DVD video có 400 khóa 5 byte này được rập trên đĩa DVD trên vùng đầu vào (những chương trình thường không thể truy cập tới được) trong hình thức bị mã hóa. Thủ tục giải mã trong đầu đọc dùng mã duy nhất của nó để gọi ra và giải mã chìa khóa đĩa, kế tiếp được sử dụng để gọi ra và giải mã các khóa tiêu đề. css thực chất là một lập mã ba cấp mà ban đầu được nghĩ là rất an toàn nhưng thực tế lại chứng minh khác hơn.
Vào tháng I0 năm 1999, một lập trình viên 16 tuổi người Na Uy có khá năng rút ra khóa đầu tiên từ một trong những đầu đọc trên cơ sở máy tính, cho phép anh rất dễ dàng giải mã đĩa và các khóa tiêu đề. Một chuơng trình nổi tiếng DeCSS sau đó được viết có thể bẻ sự bảo vệ css trên bất kỳ tiêu đề DVD video và lưu lại các tệp tin .VOB đã giải mã vào ổ cứng mà có thể được vận hành bởi bất kỳ chương trình thiết bị giải mã MPEG-2 nào. Khỏi cần phải bàn, tiện ích này (và những tiện ích khác dựa trên nó) đã gây ra sự quan tâm trong công nghiệp phim ảnh nhiều thế nào và cũng gây ra nhiều tranh luận hợp pháp qua sự phân phối, thậm chi những kết nối vào mã này trên trang web. Thực hiện tìm kiếm DeCSS xem một số bài đọc hợp pháp thú vị.
Như thể chưa đủ, tháng 3 năm 2001 hai sinh viên MIT công bố một chương trình đơn giản, ngắn cực kỳ (chỉ bảy dòng!) là có thể tháo gỡ css, quá nhanh đến mức một bộ phim về cơ bản không thay đổi trong thời gian thực nó đang vận hành. Họ viết và chứng minh mã này trong phần tham gia hội nghị chuyên đề hai ngày ở Digital Millennium Copyright Act, minh họa sự bảo vệ css thực sự tầm thường như thế nào.
ProtectDisc
Hệ thống bảo vệ chống sao chép mới nhất được gọi ProtectDisc. Phiên bản DVD Video của nó thay đổi kiến trúc tiêu chuẩn của đĩa để ngăn ngừa sự sao chép. Không may, một bộ phim được tạo ra trên DVD dùng ProtectDisc không thể thấy các chương trình đầu đọc trên cơ sở máy tính như là Window Media Player hay WinDVD.
Theo “Nâng cấp và sửa chữa máy tính” Scott Mueller