Sự lựa chọn giao thức kết nối dữ liệu ảnh hưởng đến phần cứng mạng bạn sử dụng. Do giao thức kết nối dữ liệu của Fast Ethernet. Gigabit Ethernet, Wireless Ethernet và thứ khác sử dụng phần cứng khác nhau, bạn phải chọn kiến trúc trước khi chọn phần cứng thích hợp như card mạng, cáp và các switch.
Card mạng cho mạng Ethernet có dây
Trong hầu hết các máy tính gần đây card mạng Ethernet có dây được tích hợp vào bo mạch chủ. Nếu thành phần tích hợp này hỏng hay chạy không đủ nhanh, card mạng (NIC: networtk interface card) được thêm vào khe PCI hay PCI-Express (máy tính để bàn), CardBus PC Cars (PCMCIA) hay ExpressCard trên máy tính xách tay.
Thiết bị điều hợp mạng (có cả dây) đều có một địa chỉ phần cứng được mã hóa vào phần mềm. Địa chỉ phần cứng này được biết như địa chỉ MAC. Bạn có thể thấy địa chỉ MAC trong nhãn trên mặt thiết bị điều hợp này, hay thấy nó sau khi thiết bị điều hợp này được cài đặt với tiện ích hệ điều hành như là lệnh ipconfig.exe của Windows. Giao thức lớp kết nối cài đặt với tiện ích hệ điều hành như là lệnh ipconfig.exe của Windows. Giao thức lớp kết nối dữ liệu sử dụng những địa chỉ này để xác định những hệ thống khác trên lưới mạng. Một gói tin đến đúng địa chỉ bởi vì phần đầu giao thức lớp kết nối dữ liệu mà nó có chứa các địa chỉ phần cứng của cả hệ thống nhận lẫn gửi.
Mặc dù hai máy tính kết nối nhau trực tiệp qua các cổng Ethernet bằng cáp chéo RJ-45, mạng rộng hơn lại cần một switch, vì vậy nếu dùng một switch chậm hơn tốc độ máy trạm, các máy trạm sẽ chạy ở tốc độ của switch. Một số router không dây 802.11n hay 802.11g hiện nay có cổng Gigabit Ethernet thay vì cổng Fast Ethernet.
Tốc độ
NIC chạy ở tốc độ tối đa mà hệ mạng hỗ trợ. Phần lớn card Gigabit Ethernet và Fast Ethernet cũng hỗ trợ tốc độ mạng chậm hơn, cho thí dụ card 1.000Mbps (Gigabit Ethernet) cũng hỗ trợ tốc độ 100Mbps (Fast Ethernet) hay tốc độ 10Mbps của Ethernet tiêu chuẩn, cho phép một card sử dụng trên cả phần cũ và mới của lưới mạng. Để thực hiện hoạt động nhiều tốc độ, tìm card mạng được xác định 10/100 hay 10/100/1000 Ethernet. Tất cả NIC Fast hay Gigabit mới cũng đều hỗ trợ chế độ song công:
+ Bán song công (Half-duplex) nghĩa là card mạng chỉ gửi hoặc chỉ nhận dữ liệu trong một hoạt động.
+ Song công (full-duplex) nghĩa là card mạng nhận và gửi dữ liệu đồng thời. Tùy chọn “Full – duplex” làm tăng tốc độ mạng nếu switch được dùng thay cho hub. Cho thí dụ, card Gigabit Ethernet 1.000Mbps chạy ở chế độ song công có băng thông thực tối đa 2.000Mbps, mỗi hướng một nửa tốc độ.
Chú ý:
Không giống như hub, quảng bá các gói dữ liệu đến các máy tính kết nối và nó, switch tạo ra một kết nối trực tiếp giữa máy tính nhân và máy tính gửi. Do đó, switch cung cáp tốc độ nhanh hơn hub; phần lớn switch cũng hỗ trợ hoạt động song công, làm tăng gấp đôi tốc độ mạng được đánh giá khi card mạng song công được dùng.
Loại Bus
Nếu bạn cần lắp đặt một card mạng để sử dụng với mạng Fast Ethernet (10/100Mbps), bất kỳ các bus sau đều đáp ứng:
+ PCI (33MHz hay nhanh hơn; 32 –bit hay 64-bit), NIC tích hợp vào các máy tính để bàn gần đây và card Mini PCI sử dụng cho máy tính xách tay cũng là những thiết bị PCI.
+ USB 2.0 (cũng được biết như Hi-Speed USB)
+ CardBus (khe card PC 32-bit cho máy tính xách tay).
Tất cả ba loại bus này cũng hỗ trợ card Gigabit Ethernet, nhưng USB 2.0 (480Mbps) thì không đủ nhanh để hỗ trợ hoàn toàn băng thông 1.000Mbps của Gigabit Ethernet.
Để có tốc độ tốt nhất với mạng Gigabit Ethernet trên máy tính để bàn, sử dụng card PCI-Express x1. Đối với máy tính xách tay, tốc độ tốt nhất được đạt với thiết bị điều hợp ExpressCard. ExpressCard hỗ trợ bus PCI Express nhưng chỉ có sẵn trên một số máy tính xách tay kiểu mới.
Các đầu nối thiết bị mạng có dây
Thiết bị điều hợp Ethernet có dây thường có đầu nối tám vị trí, tám dây dẫn (8P8C:eight position eight conductor) nôm na được biết như đầu nối RJ-45, trông giống như đầu cắm điện thoại. Cáp xoắn đôi Fast Ethernet và Gigabit Ethernet sử dụng đầu nối này, nhưng bạn vẫn thấy một ít thiết bị điều hợp cũ hơn có đầu nối BNC (cho cáp đồng trục Thinnet) hay đầu nối 15 chân dạng D được gọi là DB-15 (cho cáp đồng trục Thicknet). Một số thiết bị điều hợp chân dạng D được gọi là DB-15 (cho cáp đồng trục Thicknet). Một số thiết bị điều hợp 10Mbps có sự kết hợp hai hay ba loại đầu nối này: thiết bị điều hợp có hai hay nhiều đầu nối được xem như thiết bị kết hợp (combo adapter). Thiết bị điều hợp Token-Ring có đầu nối 9 chân được gọi là DB-9 (cho cáp STP Type 1) hay đôi khi có một đầu cắm Rj-45 (cho cáp UTP Type 3). Hình 17.5 thể hiện ba loại đầu nối Ethernet.
Ghi chú:
Mặc dù RJ-45 là tên chung cho đầu nối UTP Ethernet song đây là dùng sai thuật ngữ. Đầu RJ45S thực sự là đầu nối tám vị trí nhưng được dùng cho điện thoại hơn là dữ liệu máy tính. Một đầu cắm RJ45S có dạng khác một chút so với đầu nối dùng cho Ethernet và có một ngắt ở cạnh để ngăn chạn đầu nối không có then bị chèn vào. Để bản vẽ đầu cắm RJ45S thực sự và các đầu cắm điện thoại khác, xem www.siemon.com/us/standards/13-24_modular_wiring_reference.asp
Thực sự tất cả NIC Ethernet 10/100 cho máy tính trạm trên thị trường ngày nay được thiết kế dành riêng để hỗ trợ cáp xoắn đôi không bọc (UTP: unshielded twisted-pải); card Gigabit tính vào một mạng hiện hữu dùng một số dạng cáp đồng trục, bạn có bốn tùy chọn:
+ Mua một NIC combo hỗ trợ cáp đồng trục cũng như cáp xoắn đôi RJ-45
+ Mua bộ chuyển đổi gắn vào cáp đồng trục để cho phép NIC trên cơ sở UTP kết nối đến mạng hiện có.
+ Dùng một Switch hay hub có cả cổng cáp đồng trục lẫn RJ-45. Một thiết bị hai tốc độ (10/100) là cần thiết nếu thêm một hay nhiều máy tính Fast Ethernet.
+ Thay thế lắp đặt đồng trục bằng lắp đặt Ethernet được nâng cấp.
Để hiệu quả kinh tế tối đa, NIC và cáp mạng phải phù hợp, mặc dù có sử dụng các bộ chuyển đổi để kết nối các mạng dựa trên cùng tiêu chuẩn, nhưng dùng cáp khác.
Theo “Nâng cấp và sửa chữa máy tính” Scott Muelle