Xưa kia, khi đánh giá các thiết bị điều hợp âm thanh, bạn phải quyết định liệu mua card một kênh âm thanh (monophonic) hay card ghi và phát âm thanh nổi (stereophonic). Ngày nay tất cả thiết bị điều hợp âm thanh đều là ghi và phát âm thanh nổi, dùng tiêu chuản MIDI để chơi nhạc, ghi phần nhạc cho phép dùng nhạc cụ điện tử tổng hợp nhiều âm thanh hay các mẫu kỹ thuật số được lưu trữ trên điều hợp âm thanh hay trong RAM.
Card ghi và phát âm thanh nổi tạo ra nhiều âm đồng thời và từ hai nguồn. Một âm là một âm thanh được tạo bởi thiết bị điều hợp. Một tứ tấu đàn dây dùng bốn âm, mỗi âm là một nhạc cụ. Mặt khác, một nhạc cụ nhiều âm như là dương cầm, yêu cầu một âm cho mỗi nốt nhạc của hợp âm. Do vậy, tái táo đầy đủ khả năng của một nhạc sĩ dương cầm, yêu cầu một âm cho mỗi nốt nhạc của hợp âm. Do vậy, tái tạo đầy đủ khả năng của một nhạc sĩ dương cầm đòi hỏi 10 âm – mỗi âm cho mỗi ngón tay. Càng nhiều âm mà một thiết bị điều hợp âm thanh có khả năng tạo ra, càng tốt hơn độ trung thực âm thanh. Thiết bị điều hợp tốt nhất trên thị trường hôm nay có thể tạo ra 1.024 âm cùng lúc. Các thiết bị điều hợp âm thanh đầu tiên dùng bộ tổng hợp FM cho hỗ trợ MIDI; Yamaha OPL2 (YM3812) có 11 âm, trong khi OPL3 (YMF262) có 20 âm và ghi/phát âm thanh nổi. Tuy nhiên, thực sự tất cả thiết bị điều hợp âm thanh ngày nay dùng các mẫu được ghi cho hỗ trợ MIDI; thiết bị điều hợp âm thanh dùng tính năng này được xem như wavetable adapter.
Thiết bị điều hợp âm thanh Wavetable dùng bản ghi kỹ thuật số của các nhạc cụ và các hiệu ứng âm thanh thực sự cho các mô phỏng được tạo ra bởi chip FM. Khi nghe kèn trumpet trong phần ghi nhạc MIDi được chơi trên card âm thanh wavetable, bạn nghe âm thanh của kèn trumpet thật sự, không phải là sự mô phỏng tổng hợp của kèn trumpet. Card đầu tiên có tính năng wavetable hỗ trợ các clip âm thanh 1MB được nhúng vào chip ROM trên card hay trên một card con thêm vào. Tuy nhiên, với sự phát triển của bus PCI cho card âm thanh và số lượng lớn RAM trong máy tính, hầu hết card âm thanh chấp nhận cái gọi là phương pháp “soft wavetable”, tải 2MB-8MB nhạc cụ làm mẫu vào RAM máy tính.
Trong khi những chương trình trò chơi đầu tiên chỉ hỗ trợ các mẫu âm thanh được số hóa (do hầu hết card âm thanh ban đầu hỗ trợ MIDI kém cỏi), những chương trình trò chơi DÓ trễ hơn là DOOM bắt đầu khai thác hỗ trợ MIDI trên cơ sở wavetable rộng rãi giữa thập niên 1990 và nhiều card âm thanh gần đây. Với tất cả phần cứng hiện thời hỗ trợ wavetable MIDI cùng các cải tiến hỗ trợ MIDi trong DirectX 8.x và cao hơn, âm thanh MIDI trở thành phổ biến cho những track âm thanh chương trình trò chơi. Nhiều website cũng sửa tạm các chương trình trò chơi hiện hữu để có hỗ trợ MIDI. Cho dù bạn chơi trò chơi mới nhất hay âm nhạc cũng vậy, hiệu suất MIDI tốt là quan trọng với bạn.
Yếu tố quan trọng nhất cho MIDI là số âm trong phần cứng. Ngày cả các card âm thanh tốt nhất thường chỉ hỗ trợ 128 âm trong phần cứng; phần âm còn lại mà track âm thanh MIDI yêu cầu đến từ phần mềm. Nếu card âm thanh chỉ hỗ trợ 32 MIDI âm trong phần cứng hay chỉ dùng sự tổng hợp phần mềm, cân nhắc thay thế nó bằng mẫu card mới hơn. Nhiều mẫu hiện nay trên thị trường hỗ trợ nhiều hơn 500 âm cùng lúc và 64 âm trong phần cứng chỉ dưới $50.
Nén dữ liệu
Thực sự tất cả thiết bị điều hợp âm thanh trên thị trường hôm nay dễ dàng tạo ra âm thanh chất lượng CD, được làm mẫu tại 44.1KHz. Tại tốc độ này, các tệp tin được thu (ngay cả giọng nói của bạn) chiếm nhiều hơn 10MB cho mỗi phút thu. Để giảm yêu cầu này cho không giand dĩa, nhiều thiết bị điều hợp âm thanh bao gồm khả năng nén dữ liệu. Cho thí dụ, nhóm Sound Blaster bao gồm nén động các tệp tin âm thanh trong tỷ lệ 2:1, 3:1 và 4:1.
Phần lớn nhà sản xuất thiết bị điều hợp âm thanh dùng một thuật toán được gọi là nén ADPCM (ADPCM: Adaptive Differential Pulse Code Modulation), (nó cũng được gọi là IMA-ADPCM), được Intercactive Multimedia Asociation (IMA) phát triển để làm giarmkicsh cỡ tếp tin nhiều hơn 4:1, IMA-ADPCM nén các mẫu âm thanh Linear 16 bit xuống 4 bit cho mỗi mẫu. Tuy vậy, một thực tế của công nghệ âm thanh là khi bạn dùng thuật nén này, chất lượng âm thanh giảm. Không may, không có tiêu chuẩn cho việc sử dụng ADPCM. Cho thí dụ, mặc dù cả Apple và Microsoft hỗ trợ thuật nén IMA-ADPCM, họ thực thi nó theo những cách khác nhau. Định dạng dạng tệp tin tiêu chuẩn AIFF của Apple và WAV của Microsoft không tương thích với nhau trừ khi bạn dùng một đầu đọc đĩa vận hành với cả hai.
Khi lắp đặt thiết bị điều hợp âm thanh vài codec (các chương trình thực hiện thuật nén và giải nén) được cài đặt. Bình thường một số dạng ADPCM được cài đặt với nhiều cái khác. Để xem codec nào được cài đặt trong hệ thống, mở Windows Media Player (verison 11 hay mới hơn), chọn Show Classic Menus và nhắp Help, About Windows Media Player. Kế tiếp nhắp kết nối Technical Support Information. Trong cửa sổ trình duyệt mở sẵn, cuộn xuống để xem các codec âm thanh được cài đặt. Trong Windows XP, bạn cũng có thể mở dụng cụ Sound và Audio Device trong Control Panel, nhắp nhãn Hardware, chọn Audio Codecs và nhắp nút Properties. Các codec này được liệt kê trong thứ tự ưu tiên, từ cao nhất đến thấp nhất. Bạn cũng có thể đổi quyền ưu tiên nếu chọn thứ tự ưu tiên.
Tiên chuẩn nén phổ biến nhất là tiêu chuẩn MPEG (MPEF: Motion Pictures Experts Group), hoạt động với nén âm thanh lẫn video và đang giành được sự ủng hộ của thế giới không phải là máy tính như những sản phẩm như đầu đọc DVD. MPEG cho tỷ lệ nén 30:1. Chương trình nén âm thanh MP3 thông dụng là một định dạng MPEG, nó có thể được phát lại trên phần lớn phiên bản của Windows Media Player , cũng như trên nhiều thiết bị và chương trình đầu đọc âm thanh khác.
Theo “Nâng cấp và sửa chữa máy tính” Scott Mueller